Our forum runs best with JavaScript enabled !

Sách

Page 48 of 55 Previous  1 ... 25 ... 47, 48, 49 ... 51 ... 55  Next

View previous topic View next topic Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 11, 2023 4:33 pm

Kỳ lạ tính cách của nhà văn Franz Kafka

Tapchisonghuong

Franz Kafka (1883 - 1924) là nhà văn  người Do Thái chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, có tầm ảnh hưởng lớn trong thế kỉ 20.

Kỳ lạ tính cách của nhà văn Franz Kafka

Nhà văn Franz Kafka
Các tác phẩm chính của ông, như “Hóa thân”, “Vụ án”, “Lâu đài” sử dụng những chủ đề và nguyên mẫu về sự ghẻ lạnh, tàn bạo về thể xác và tinh thần, mâu thuẫn cha - con và những sự biến đổi kỳ bí.

Nghiên cứu tiểu sử của nhà văn, có thể hiểu vì sao ở ông lại xuất hiện những chủ đề này.

Vừa yêu vừa ghét tổ quốc mình

Franz Kafka chào đời trong một gia đình Do Thái nói tiếng Đức thuộc tầng lớp trung lưu ở Praha (nay là thủ đô của Cộng hòa Séc), khi ấy là một phần của Đế quốc Áo - Hung. Quốc tịch của Kafka đã gây cho ông nhiều rắc rối vì ở Praha, vào thời đó thường diễn ra các cuộc tàn sát người Do Thái.

Kafka viết trong một bức thư: “Suốt ngày tôi ở trên những con phố tắm trong hận thù chống người Do Thái”, và nói rằng sự giải cứu duy nhất là thoát khỏi thành phố.

“Đồ máu bẩn. Người ta gọi dân Do Thái như vậy trước mặt tôi” - ông viết. Trong hoàn cảnh ấy, thật tự nhiên khi Kafka rời khỏi Praha, thế nhưng ông vẫn ở lại, đánh đồng “lòng dũng cảm” của mình với “lòng dũng cảm của một con gián, loại sinh vật không thể xóa khỏi phòng tắm”- như Kafka đã viết trong nhật ký.

Sự phi lý còn ở chỗ ông là một người Do Thái Séc viết bằng tiếng Đức, vốn bị nhiều người căm ghét ở Séc.

Hơn nữa, Kafka thậm chí trở thành biểu tượng của Praha - thành phố mà ông yêu mến, nhưng đồng thời ông đồng nhất nó với cái ác đã vắt kiệt sức lực của ông.

Sau khi Kafka qua đời, một nhà văn Đức đã viết: “May mà ông chết vì bệnh lao sớm như vậy và không thấy những người anh em mình bị tống vào trại tập trung, bị thiêu sống, chôn sống trong các ngôi mộ tập thể”.

Trở thành nhà sáng chế... mũ bảo hiểm

Suốt đời Kafka bị phân thân giữa văn học và luật học. Như ông từng viết, tất cả những gì không liên quan tới văn học đối với ông hoàn toàn vô nghĩa, vô ích, vớ vẩn. Nhưng người cha khắc nghiệt đã bắt đứa con trai khiếp nhược, cái gì cũng sợ của mình phải học luật và thậm chí lấy bằng tiến sĩ.

Tốt nghiệp ĐH xuất sắc, Kafka trở thành viên chức của một công ty bảo hiểm. Ông căm ghét công việc của mình, nhưng do được chứng kiến nhiều trường hợp tai nạn lao động xảy ra tại các công trường và trong ngành công nghiệp, Kafka đã sáng chế và áp dụng chiếc mũ bảo hiểm cứng cho công nhân.

Với đóng góp này ông đã được thành phố trao tặng huy chương lưu niệm.

Những tính cách kỳ lạ

Mặc dù ông nội của nhà văn, Jacob Kafka, làm nghề mổ thịt heo,
nhưng bản thân Franz Kafka lại thích ăn chay. Ông sợ xác động vật chết, hễ nhìn thấy chúng là ngay lập tức bị trầm cảm.

Các nhà nghiên cứu viết, dòng họ Kafka ai cũng to khỏe, ông nội nhà văn có thể dùng răng nhấc bổng một bao bột mì. Trong gia đình này tất cả mọi người đều cao lớn, kể cả các em gái của Franz.

Trong khi đó, nhà văn lại xấu hổ về chiều cao của mình, nó khiến ông cảm thấy mình không mạnh mẽ, mà ốm yếu, vụng về và buồn cười. Nhà văn bị huyết áp thấp, đau đầu, mất ngủ, táo bón, ông rất mặc cảm về cơ thể mình.

Mối quan hệ của Kafka với phụ nữ hết sức kỳ quặc. Mặc dù nhà văn rất hay phải lòng phái đẹp, nhưng lại sợ phụ nữ. Đến năm 26 tuổi, ông vẫn là một trai tân. Sau đó, trong cuộc đời ông xuất hiện Felice Bauer, một cô gái không nhan sắc, người họ hàng của nhà văn Max Brod, bạn thân của Kafka, Felice làm đại diện cho một công ty máy ghi âm ở Berlin (Đức). 

Suốt bốn năm quen nhau, Kafka ngỏ lời cầu hôn Felice hai lần. Cả hai lần bà đều đồng ý, nhưng rồi Kafka lưỡng lự, không dám kết hôn.

Cuộc sống thực tế với một người phụ nữ không hấp dẫn Kafka, ông thích sự lãng mạn trong văn chương hơn. Họ viết cho nhau những bức thư tràn đầy tình cảm, nồng nhiệt và mơ mộng, vì vậy đối với nhiều cô gái trẻ, những bức thư của họ còn hay hơn cả một cuốn tiểu thuyết lãng mạn.

Trong thời gian yêu Felice Bauer, Franz đã sáng tác nhiều tác phẩm như “Thợ đốt lò”, các chương trong tiểu thuyết “Nước Mỹ”, “Hóa thân”, “Vụ án”.

Tiếc thay, chỉ một mình nhà văn say mê sự lãng mạn, còn Felice nói thẳng ra muốn có gia đình và con cái. Tuy nhiên, quan hệ của họ kết thúc không phải vì Kafka không muốn kết hôn. Brod khẳng định trong thời gian Kafka biết Felice Bauer, ông có một chuyện tình với một người bạn của cô này, Grete Bloch, một phụ nữ Do Thái đến từ Đức.

Brod còn tiết lộ, Bloch đã có một đứa con trai với Kafka, nhưng Kafka không bao giờ biết về đứa trẻ. Tuy nhiên, theo nhà viết tiểu sử Kafka là Peter-André Alt, kể cả khi Bloch có một đứa con, Kafka cũng không phải là bố nó vì hai người này chưa bao giờ chung sống với nhau. 

Những ngày cuối đời

Năm 40 tuổi, Kafka quyết định kết hôn với Dora Diamant, một thiếu nữ Do Thái 19 tuổi ông gặp tại buổi lễ hội của người Do Thái. Sau 3 tuần, họ bắt đầu sống cùng nhau ở Berlin.

Sau đó, Dora cùng Franz đến ngoại ô Vienna, nơi Franz đang điều trị bệnh lao tại một bệnh viện.

Kafka viết thư cho bố vợ, cầu xin ông chúc phúc cho cuộc hôn nhân của họ càng sớm càng tốt. Nhưng những người thân của Dora lại nghĩ, một nhà văn 40 tuổi sắp chết vì bệnh lao không phải là một đám tốt nhất đối với một cô gái trẻ. 11 tháng sau khi gặp Dora Diamant, nhà văn qua đời trong vòng tay yêu thương của cô.

Trước khi mất, Kafka đã chuyển tất cả các tác phẩm chưa được xuất bản của mình cho Max Brod và yêu cầu ông tiêu hủy. Những trang viết này phản ánh sự sợ hãi, nỗi ám ảnh của nhà văn và nỗ lực đương đầu với những cảm xúc dằn vặt ông.

Brod không những không thực hiện yêu cầu của Kafka mà còn tìm mọi cách thúc đẩy việc công bố và quảng bá di sản văn học của Franz Kafka. Do đó, hầu hết các tác phẩm của Kafka đều được xuất bản sau khi tác giả qua đời. Ngày nay ở thủ đô Praha của Cộng hòa Séc có Bảo tàng Kafka, nơi lưu giữ tất cả các tác phẩm của ông. 

Kafka cũng chuyển một phần bản thảo của mình cho vợ và yêu cầu bà đốt đi. Khác với Max, Dora đã thực hiện nguyện vọng của nhà văn, chỉ để lại hơn 30 bức thư của Kafka và 20 cuốn sổ ghi chép. Tất cả chúng bị thất lạc năm 1933, khi ngôi nhà của Diamant ở  bị bọn mật thám Gestapo lục soát và tịch thu tất cả tài liệu của bà.

Theo Trần Hậu - GD&TĐ

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 11, 2023 4:42 pm

[Review] Vụ án (Franz Kafka)

InnerWhite

[Spoiler] Bài viết có tiết lộ một số tình tiết truyện.

Đã nghe nói về Franz Kafka, nhưng quyển đầu tiên mình đọc là Hóa thân, sau đó đến Nghệ sĩ nhịn đói, rồi mới tới Vụ án. Cũng may mắn, trình tự này giống như đọc Trại súc vật trước khi đọc 1984, chứ nếu đâm bổ vào đọc Vụ án ngay thì chắc bị sốc Smile

Mình rất thích các nhà tư tưởng viết tiểu thuyết, vì đọc những tác phẩm ấy cảm giác sướng không chịu được. Những cuốn mình đã nói dằng dai nhai đi nhai lại miết là Một mảnh trò đời, Người xa lạ, 1984 và giờ là Vụ án. Bài viết này cũng muốn chia sẻ một ít so sánh giữa Vụ án và hai quyển Người xa lạ, 1984.

Vụ án và Người xa lạ cùng nêu bật lên phạm trù phi lý trong cuộc sống và nỗi cô đơn bất lực của con người. Trong Người xa lạ, cái vô lý khởi đầu bằng việc nhân vật giết người, phần còn lại chủ yếu miêu tả nội tâm nhân vật. Còn trong Vụ án, cái phi lý được đẩy lên đến đỉnh điểm, trở thành nội dung chính của câu chuyện mở đầu bằng một câu khắc khoải: “Chắc hẳn là người ta đã vu oan cho Joseph K., bởi vì chẳng làm điều gì nên tội, thế mà một buổi sáng kia anh bị bắt.” Không dừng ở đó, cuối truyện K. còn bị kết án tử mà không biết cả tội danh của mình, không thấy mặt mũi của tòa án lẫn ông thẩm phán đã xét xử anh. Câu chuyện mở đầu vô lý, những con người K. gặp nói năng đều vô lý, những tòa án vô lý trên nóc chung cư, diễn biến vô lý của vụ án nhẽ ra đã khiến câu chuyện trở nên phi lý không chịu đựng nổi, nhưng ngược lại, nhân vật chính của câu chuyện lại suy nghĩ logic và hành động hết sức tỉnh táo (anh là nhân viên cấp cao của một ngân hàng) khiến cho kết cấu câu chuyện lại có phần thông minh, thú vị, khiến cuộc đối đầu giữa nhân vật chính và tòa án trở nên thực tế, chính là cái thực tế vùng vẫy của con người trong xã hội phi lý, khác với sự vùng vẫy mờ mịt, có chút nào đấy nửa vời giữa ranh giới muốn sống và muốn chết trong Người xa lạ. Cái phi lý trong Vụ án lại còn được “biện hộ” đầy sống động qua rất nhiều trường đoạn phân tích của những nhân vật phụ xuất hiện trong cuộc đời K. như ông luật sư, gã họa sĩ hay nhà linh mục. Tất cả họ dường như có đầy đủ lý do và kinh nghiệm để tồn tại trong xã hội hết sức bất an này, trừ nhân vật chính. Rất lấp lửng, rất vô lý, không thể tìm hiểu, không có cơ hội chất vấn, không có sự giúp đỡ (mọi sự đề nghị giúp đỡ trong truyện đều là ảo), thế mà lại buộc phải xem như là một sự hiển nhiên. Nhân vật đã chết trong sự vùng vẫy bất lưjc và nỗi cô đơn khủng khiếp không gì sánh được trong cuộc đời. Cả cách chết cũng vô lý nốt.

Trong khi Vụ án giống với Người xa lạ ở phạm trù phi lý của triết học, thì tác phẩm này lại giống với 1984 ở cảm giác cô đơn bất lực của con người trong xã hội, mà cụ thể là thể chế, là tòa án, là luật pháp. Những thể chế đó trong các tác phẩm đều đồ sộ, mà những cá nhân trong 1984 (nhân vật hiểu lờ mờ đầy sợ hãi) và Vụ án (nhân vật hầu như không hiểu gì) bị đè nén đến cùng cực và cuối cùng là bị bức tử. Trong cả hai tác phẩm, nhân vật chính đều phản kháng, nhưng độc giả thấy rõ sự vô ích và bất lực qua từng chương, đoán được cả kết thúc, nhưng lại không thể không bàng hoàng bởi tính chất của nó. Thể chế, tòa án, luật pháp, những thứ đại diện cho xã hội văn minh đó tồn tại như những rào cản, nhưng nó quá khó để vượt rào, để đạp đổ, để sống ngoài vòng. Nó vô hình nhưng có những con mắt xuất hiện ở khắp mọi nơi. Nó có thể bị chúng ta thường xuyên xem nhẹ Smile cho đến lúc đột nhiên bị kết án Smile)). Nó sẽ quăng qua quật lại, đập tan nát xác tín của những kẻ theo chủ nghĩa Hiện sinh (như mình) khiến cả bọn đột ngột mất hết niềm tin về cá nhân cốt lõi. Nó sẽ khiến Nietzsche phải đội mồ sống dậy, một lần nữa tay cầm “chiếc búa tạ đập nát cõi người” Smile)))))))) Đùa một chút, chứ thật ra không khí trong cả hai truyện này đều nặng nề và không lối thoát. Mọi nỗ lực đều chỉ đưa đến tuyệt vọng. Cá nhân bị dìm xuống đáy, bất chấp bản thân anh ta là một tiểu vũ trụ. Những vấn đề lớn đặt ra trong từng câu chuyện khiến người đọc không tránh khỏi phải nhìn lại chính mình và cuộc sống của mình, cũng như việc phải nhìn xa hơn vào cộng đồng, vào lề luật, vào môi trường xung quanh. Hơn nữa, còn khiến người đọc ý thức được giới hạn của sức mạnh ý chí, của tinh thần, của lý tưởng tự thân, và nhất là sự mỏng manh của thân xác. Nietzsche đề cao thân xác, Sartre đề cao hiện hữu, rằng thân xác là bình chứa cốt yếu của tư tưởng, để rồi trong 1984, tư tưởng chết trước, và trong Vụ án, thân xác chết trước. Còn gì nữa đâu.

1984 viết chính trị, Người xa lạ viết về triết học, Vụ án thì ở đâu đó giữa cả hai Smile nhưng nhìn chung đều có cái kết giống nhau bi kịch, các nhân vật chính đều bị tòa án buộc tội và đều phải chết. Dù ít lạc quan vào cuộc sống, các tác phẩm này đều rất đáng đọc bởi đều thuộc hàng kinh điển, là các tác phẩm nổi tiếng thế giới và đã trở thành cảm hứng cho rất nhiều nhà văn hậu hiện đại. Cá nhân mình thấy những quyển này đều có tầm vóc tư tưởng, rất hay, đọc sướng tê. Nếu bạn đã đọc một trong ba quyển và đồng cảm, đến gặp mình, chúng ta sẽ ôm hôn Smile))))))

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 11, 2023 4:46 pm

Vụ Án – Franz Kafka

Bùi Yến Nhi - forum diendanvanhoctre

Joseph K bị vướng vào một vụ án mà kẻ kết tội anh là một tòa án, song lại hiện lên như thế lực siêu hình, càng tìm lại càng chẳng thấy. Thế lực đó biến mọi điều phi lý đều trở thành có lý, đạp lên mọi chuẩn mực thông thường trong quy trình xét hỏi xử kiện thông thường. Hai kẻ canh gác xông vào căn hộ Joseph K thuê mà không một lời giải thích, chỉ nói rằng anh có tội, anh phải theo một vụ án. Song tội danh của anh là gì, chúng không hề nói. Mọi giấy tờ tùy thân anh đưa ra nhằm chứng minh mình vô tội, hai kẻ đó cũng không thèm ngó ngàng đến.

Và từ sau buổi sáng hôm ấy là hành trình dai dẳng đeo đuổi vụ án của Jeseph K. Song tất nhiên, càng theo đuổi, càng cố gắng tìm đến cùng sự thật về vụ án, Joseph K càng thất vọng và mệt mỏi. Bởi vốn dĩ, làm gì có vụ án nào. Song cả thế giới ấy đều khẳng định Joseph K dính phải một vụ án. Mà khi bị kết tội như vậy, tâm lý con người sẽ tìm mọi cách để chứng minh mình vô tội. Nhưng ngay chính tâm lý của K, tìm cách chứng minh mình vô tội đã ngầm thừa nhận mình có tội dẫu bản thân anh biết rằng, đây vốn là một vụ án oan.

Bản chất vụ án lẫn phiên tòa, tòa án của Joseph K cũng là một thứ gì đó hết sức mơ hồ, hoang đường. Anh bị kết án, những kẻ kết án anh đều xác định vụ án của anh cực kỳ nghiêm trọng nhưng Joseph K vẫn “có tự do”, được tại ngoại, vẫn được đi làm và sống một cuộc đời bình thường. Phiên tòa K tham dự mà đến cuối cùng nó có thực là phiên tòa khi những người phụ trách lại chẳng hiểu gì về vụ án họ xét xử. Ai kết án, kết án vì tội gì, tại vì sao lại kết án. Tất cả bí ẩn đó đều chỉ được giải đáp bằng một lời đáp hết sức hờ hững: Joseph K cần phải đi hỏi cấp trên. Nhưng cấp trên lại có cấp trên cao nữa và đến cuối cùng, cấp trên ấy mãi mãi là một bí ẩn cao vời vắng mặt. Và điều này dường như gợi con người ta liên tưởng đến sự vắng mặt của một đáng tối cao, hay chính là đấng toàn năng trong sự phán xét, trong tòa án của con người.

Đồng thời, danh tính của con người ở vụ án của Joseph K cũng đặc biệt trở nên mơ hồ. Một kẻ thợ mộc tên Lanz do Joseph K tự tưởng tượng ra bỗng dưng được thừa nhận là có tồn tại, sự thiếu tên gọi của các quan tòa, thẩm phán làm cho người đọc như cảm tưởng: anh có thể là anh, nhưng cũng có thể là bất cứ ai trong tòa án ấy. Danh tính, thứ để gọi tên một con người, cuối cùng cũng trở nên nhòe mờ trong thế giới hư thực, hiện thực nhưng nhuốm màu huyền ảo mà Kafka tạo dựng lên.

Khép lại câu chuyện, Joseph K chết, chết trong sự mệt mỏi khi theo đuổi vụ án mà đến cuối cùng anh vẫn không hiểu được anh có tội gì, quan trọng hơn là không hiểu được hệ thống tòa án đã kết tội anh. Thế giới mà Joseph K đã sống là thế giới phi lý, nơi người ta mặc nhiên thừa nhận tư tưởng, hành động người khác gán cho một cá thể. Joseph K vướng vào vụ án, gần như không ai quá đỗi ngạc nhiên, mọi người đều bình thản trước sự kiện đó.

Cũng giống như Gregor Samsa, hóa thân thành một sinh vật khổng lồ nhưng cả thế giới quanh anh vẫn vận hành bình thường như sự tồn tại của anh không hề có ý nghĩa. Có thể nói, chính cái sự mơ hồ, hư thực đã giết chết một Joseph K, bởi không gì dễ giết chết tinh thần một con người hơn là khiến con người đó kiệt quệ, mất phương trong một mê cung chằng chịt của sự hoài nghi về bản thân, con người lẫn xã hội. Và ngay chính kết cấu theo motif mê cung như vậy cũng là một cách tái tạo motif thường thấy trong thần thoại Phương Tây của Kafka ở tác phẩm Vụ án.

Nhưng trực giác về cái phi lý thì rất rõ ràng, đó là sự tồn tại của cơ quan hành pháp và phản ứng của người bị kết tội.

1. Phi lý trong sự hiện hữu của Tòa: có mặt ở khắp mọi nơi, từ vô hình đến hữu hình, nhưng hỏi cho đến nơi, đến chốn thì không thể. Người thi hành luật pháp mỗi khi bị truy lý đều nhất loạt nhắc đến một nhân vật quyền lực ở trên mà chính họ cũng chưa hề biết mặt. Bao trùm lên tất cả là ấn tượng duy nhất: lực lượng vô hình ấy lại có một sức mạnh ghê gớm. Nó sẵn sàng kết án tử hình người ta vô cớ mà không bị phán xét, cấm cản.

2. Phi lý trong không gian xử án: Căn phòng xử án cũng không có dấu hiệu của sự tôn nghiêm mà mang dáng dấp của căn nhà bình dân, muốn đến đó phải đi qua rất nhiều lần rẽ, ngoặt. Đám đông chen chúc cả ra dọc theo hành lang căn phòng áp mái. Ở góc phòng một vụ quan hệ tình dục đột nhiên diễn ra, như nhiên. Cả người hành xử và người quan sát đều xem như việc tự nhiên... Người ở đây quen với sự tù túng, yếm khí đến mức cửa vừa hé ra không khí trong lành ùa vào họ như sắp ngất, phải quay lại ngay về chốn âm u quen thuộc.

3. Phi lý trong cơ chế làm việc: Cỗ máy ấy vận hành theo một cơ chế mà nếu tư duy theo lối thông thường người ta chỉ còn biết kêu trời. Cấu trúc mang lý tính cao của luật pháp đã bị phá bỏ không thương tiếc: tòa triệu tập K tới tòa vào chủ nhật, giấy mời không có giờ ấn định, có địa chỉ tòa nhà mà không có số căn phòng cụ thể... Không thể tìm đâu ra những phân tích rạch ròi, cẩn thận và những giải thích chính xác của tòa trong những phiên xử kéo dài lê thê trước thắc mắc của nghi can. Chỉ có kết quả được mặc định. Kể cả người đang thi hành luật pháp như 2 cảnh sát, viên đội và thẩm phán được giao nhiệm vụ xét xử K không biết bị cáo mắc tội gì, cũng không biết gì về lí do K bị bắt "Chẳng liên quan gì đến bọn tôi". Bởi vì ở đó chuyên "sử dụng những viên thanh tra hám tiền, đội trưởng cảnh binh và những viên dự thẩm ngu độn". Sách luật pháp mà quan tòa dùng trong đó là những "bức tranh thô tục" nên "tổ chức tư pháp chìm ngập trong vô vàn những cái tinh vi. Rồi cuối cùng nó cũng khám phá ra một tội trạng xưa nay chưa từng bao giờ có cả". Đó là thế giới của những điều phi lý.

4. Con người vô tội sống ở đó, buộc phải vận hành theo nó cũng dần bị tha hóa mà chấp nhận cái phi lý. Bị kết án mà vẫn đi làm, tòa thích thì gọi, nhân vật K hoàn toàn không biết mình mắc tội gì, không được xem chứng cứ kết tội. Cái án mơ hồ cứ lơ lửng treo trên đầu. Càng muốn chứng minh mình vô tội K càng bị hệ thống tòa án dày dặc vây bủa. Anh tìm luật sư bào chữa, tìm người giúp đỡ, bỏ bê công việc từ ngày này sang ngày khác để cuối cùng nhận được lời khuyên "Ông nên nhớ rằng trong những chuyện kiện tụng này không ngừng có những điều được đề cập mà lí trí không hiểu nổi" khép lại hi vọng mỏng manh của K là phía bắt giam cho mình đích danh một cái tội nào đó. Âu lo, chán nản bào mòn lý trí, xui khiến K thỏa hiệp với hoàn cảnh. Anh dần thích nghi với trạng thái tội lỗi và bình thản đón nhận cái chết phi lý. Thậm chí K còn chạy nhanh đến chỗ chết như một cách giải thoát nỗi tuyệt vọng đã đeo bám mình quá lâu. Không ai biết K chết vì lí do gì chỉ biết rằng nhân vật vô tội...

Có nhiều cách đọc thông điệp của Kafka từ những chất liệu bất thường đã được ông cài đặt trong "Vụ án" nhưng dễ thấy vẫn là bi kịch: con người là nạn nhân đau đớn nhất của thời đại, thể chế phi lý. Ở đó sự chuyên quyền đối đầu với công dân của mình một cách vô pháp và độc ác. Pháp luật là vỏ bọc của các tổ chức tội ác, của các thế lực chính trị. Tất cả hợp lại để thao túng đời sống con người. Ở đó, ai cũng có thể là một tội phạm chờ phán quyết một cách bất thình lình. Lỡ bị kết tội thì dù phi lý cũng chỉ tạm tha và hoãn xử chứ không bao giờ tha bổng. Giữa mê cung khổng lồ ấy con người thật nhỏ nhoi, cô độc. Tồn tại mà như không tồn tại. Bị tuyên tội, phải chết mà không biết tội gì, không biết lý do. Cảm giác bất an thường trực, chi phối đời sống con người. Cái phi lý chỉ có thể giải thích bằng "định mệnh" khiến con người nếu sống sót cũng phải chung sống với những chấn thương tâm lý vĩnh viễn. Với lí giải này Kafka đã gặp Dostoievxky trong câu nói "Hạnh phúc là ngụ ngôn, còn bất hạnh là chuyện đời"....

Gần một thế kỷ đã qua, Kafka chưa bao giờ là một "người xa lạ" trong hành trình tinh thần của nhân loại. Thế mới biết ở những nhà văn thiên tài có khả năng tiên tri thì khoảng cách của thời gian chỉ làm cho những thấu thị của họ trong tác phẩm sáng rõ hơn mà thôi.

Joseph K là mẫu hình của những kẻ chống lại sự cứu rỗi nhưng đến cuối cùng vẫn đi đến kết cục của sự thất bại. Và huyền thoại được sáng tạo lên trong tác phẩm Vụ án là một thứ huyền thoại gắn liền với hiện thực, một thứ huyền thoại được tạo dựng, khúc xạ lên từ chính những điều phi lý, vô nghĩa lý trong cuộc sống. Mà ở đó, con người bị bủa vây bởi một hệ thống mê cung, mạng nhện chằng chịt những hoài nghi, những sự hư thực không rõ ràng của sự quan liêu, độc tài. Và, giữa bao vụ án, bao tòa án, đã có bao Joseph K thực sự xuất hiện ngoài đời thực?

“Vụ án” Kafka viết với một giọng văn lạnh lùng, khách quan, ông ném vào tác phẩm tất cả những “nỗi căm hờn của kiếp người hiện đại”. Tuy vậy, Kafka không cổ xúy cho cái phi lý, cái bi đát, nỗi cô đơn, sự bất lực,… Với ông, cuộc sống đồng nghĩa với việc tranh đấu và vươn lên.

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 11, 2023 5:52 pm

VĂN HỌC Đi tìm lâu đài của Kafka - Bài một : Nhà văn dò tìm những mạch ngầm

Bảo Thạch - rfi

Với ba tiểu thuyết "Vụ Án", "Lâu Đài", "Hóa Thân", Franz Kafka đã trở thành một nhà văn lớn của thế kỷ 20, bên cạnh James Joyce, Marcel Proust. Ông tin chắc rằng có nhiều thế lực vô hình giấu mình trong tâm thức nhà văn và một khi "biển cả đã đóng băng" bị nứt nẻ ra, các hồn vía không tên, bức bách chiếm lĩnh lại ngòi bút của nhà văn.

Trong một lá thư gửi người bạn vào tháng giêng năm 1904, Kafka viết : «Tác phẩm là nhát búa phá vỡ biển cả đã đóng băng trong chúng ta». Kafka đã lấy cuộc đời đặt cược cho văn học như vậy.

Không lấy vợ, đẻ con, không suy tính đến tương lai, mỗi đêm ngồi viết đến tảng sáng, mắc bệnh lao, thổ huyết đều đều, cũng chẳng màng đến hư danh, khi chết để lại chúc thư uỷ thác cho người bạn Max Brod việc thiêu đốt tất cả những sáng tác mà Kafka chưa hoàn tất, chưa ưng ý.

Nhưng may mắn thay, di chúc của Kafka đã bị phản bội. Max Brod đã không ném vào thần lửa các tiểu thuyết như «Vụ Án» và «Lâu Đài». Cùng với truyện ngắn «Hóa Thân», hai truyện dài vừa kể đã bảo đảm cho Kafka vị trí nhà văn lớn nhất thế kỷ 20, bên cạnh James Joyce và Marcel Proust.

Kafka người dò tìm những mạch ngầm

Trong số ba nhà văn lớn được công nhận là người mở đường cho tiểu thuyết hiện đại, Kafka mang nhiều ẩn số nhất, cho dù các tác phẩm của ông dễ đọc hơn nhiều trường thiên tiểu thuyết của Proust hay truyện «Ulysse» của Joyce. Bí ẩn của trường hợp Kafka suốt một thế kỷ vừa qua đã rõ, khi hàng vạn bài viết và tập sách nghiên cứu đề nghị diễn giải ý nghĩa của các tiểu thuyết như «Vụ Án» và «Lâu Đài». Tuy nhiên, đằng sau các bài phê bình uyên bác, thường phản ảnh dấu ấn những ý thức hệ đương thời, dường như Kafka chỉ nói về mình, về các giấc mộng kinh hoàng của kẻ ngoại cuộc, mãi mãi đi tìm một chỗ đứng trong cuộc đời để viết văn.

Tháng 7 vừa qua, 125 năm sau ngày sinh của Kafka, thế giới kỷ niệm sự kiện này, xem đó là một món nợ phải trả đầy đủ cho một nhà văn đã bắt mạch thời thế, chiêm nghiệm trước những khổ đau của thế kỷ vừa qua, mở đường cho đông đảo các tiểu thuyết gia năm châu. Gabriel Garcia Márquez đã từng tiết lộ, ông đã khám phá được cách viết văn mới khi phát hiện Kafka.

Franz Kafka - 1906
Nguồn : fr.wikipedia.org

Franz Kafka sinh ngày mồng 3 tháng 7 năm 1883, tại Praha, lúc đó thuộc đế chế Áo Hung, nay là thủ đô cộng hòa Tiệp. Ông mất năm 1924, gần Vienna, thọ 41 tuổi. Cột mốc đánh dấu sự nghiệp của Kafka diễn ra vào buổi tối ngày 22 tháng 9 năm 1912. Lúc ấy, ông dự định viết về một chủ đề khác, nhưng theo lời tường thuật của chính ông, ngòi bút của ông như thần nhập, như lên đồng, ông viết một mạch như ma đuổi truyện ngắn đặt tên là «Bản Án». Chỉ trong một đêm, đến tảng sáng, truyện ngắn này đã hoàn tất. Phải nói ngay rằng «Bản Án» không phải là bản nháp của «Vụ Án», nhưng ngay từ lúc đó, Kafka như người phá vỡ được ức chế nội tâm, đã kể một câu chuyện về mâu thuẫn giữa cha và con, về sự tàn nhẫn và sự hy sinh, về những bí mật phải che giấu và mặc cảm tội lỗi. Quan trọng hơn cả, kể từ lúc đó, Kafka đã sáng tạo được cho mình phương pháp chấp bút. Ông đã nắm bắt được một chân lý. Ông tin chắc là có nhiều thế lực vô hình, giấu mình trong tâm thức nhà văn. Chưa biết chừng, đó là vị thần nặc danh hay ác quỷ hay chăng đây chỉ là những bóng ma trong đêm khuya hiện về ? Tầm thường hơn, có lẽ đấy chỉ là thế giới nội tâm, một khi « biển cả đã đóng băng » bị nứt nẻ, các hồn vía không tên, bức bách chiếm lĩnh lại ngòi bút của nhà văn.

Cứ như vậy, Kafka tin chắc vào chính mình để sáng tác và ông đã vắt kiệt sức mình để lại ba tác phẩm được biết đến nhiều nhất là «Hóa Thân», «Vụ Án» và «Lâu Đài».

Trong ba tác phẩm vừa kể, «Hóa Thân», xuất bản năm 1915, đã trở thành kinh điển với nhân vật Grégoire Samsa, một sớm thức giấc, chợt thấy mình hóa thân thành một con bọ cồng kềnh.

«Vụ Án» thì đau xót, dữ dội, với lần đầu tiên trong lịch sử văn học xuất hiện thân phận một con người bị buộc tội oan, mà nạn nhân lại không biết tội danh là gì. Nhưng pháp lệnh không thể nhầm lẫn. Joseph K nhân vật ở đây sẽ bị hai kẻ lạ mặt đến cắt cổ mà anh ta vẫn không ngừng kêu oan. Ngay từ trang đầu, Kafka thu hút độc giả với câu : «Chắc hẳn có người bôi nhọ Joseph K, bởi vì chẳng làm điều gì nên tội, nhưng ông ta đã bị bắt vào một buổi sáng».

Tượng Kafka bằng đồng tại Praha
Ảnh : Bjorn Laczay / fr.wikipedia.org

«Lâu Đài», truyện dài viết dở dang. Mở đầu ở trang nhất như sau : «Đó là vào một chiều tối, khi K đã đến đây. Ngôi làng phủ đầy tuyết. Không thể nhìn thấy ngọn đồi toà Lâu Đài với sương mù và bóng tối vây quanh. Không có dù chỉ một đốm sáng nào cho biết sự hiện hữu của một tòa lâu đài to lớn. K dừng lại một hồi lâu bên chiếc cầu gỗ trên con đường dẫn đến ngôi làng và ngẩng nhìn về phía có thể tưởng chừng chỉ là một khoảng không».

Câu chuyện «Lâu Đài» của Kafka mở màn như vậy, đơn giản, nhẹ nhàng, khúc chiết. Tất cả đều bình dị, ngoại trừ nhân vật ở đây lại không có tên hay nói đúng hơn, người này chỉ được nêu danh bằng ký hiệu chữ K. Đêm đó, K trú ngụ tại ngôi làng. Hôm sau, K hỏi han, tìm cách tiếp xúc với Lâu Đài. Là người đạc điền, K nói đã nhận được hợp đồng để làm việc tại Lâu Đài. Tuy nhiên, suốt thời gian sau, mặc dù kiên định đến đâu, K vẫn không được phép băng qua cửa tòa Lâu Đài để yết kiến chủ nhân của nó.

Hoàn cảnh của K, cả làng ai cũng biết. Lâu Đài gửi những trợ lý xuống làng, tiếp chuyện với K, thậm chí có cả hai gã thanh niên được phái xuống làng để giúp đỡ K, nhưng thâu nhận K thì điều này chẳng bao giờ Lâu Đài chấp thuận. Ngày tháng qua, K sinh hoạt ở ngôi làng dưới chân đồi, chờ đợi cơ hội, ngóng trông một tín hiệu của Lâu Đài, sẽ không bao giờ đến. Thế giới của Lâu Đài, anh ta chỉ biết qua trung gian hay những phản ảnh gián tiếp. Cửa Lâu Đài vẫn đóng. Kể đến đây, chưa đủ thời gian kết thúc tiểu thuyết, Franz Kafka đã qua đời.

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 11, 2023 6:10 pm

Đi tìm Lâu Đài của Kafka - Bài 2 : Mê Cung

Bảo Thạch - rfi

Mê cung trong nhà thờ Chartres, Pháp

Không thể tách rời ý nghĩa những tác phẩm của Kafka ra khỏi mảnh đất chúng sinh sôi nẩy nở. Cũng không thể « đọc » Kafka mà quên đi chúng ta đang đứng ở đâu, tại những điểm nhìn nào. Vì vậy, phải trở ngược về đầu thế kỷ 20, quãng thời gian đã được nhà sử học Eric J.Hobsbawm mệnh danh là kỷ nguyên của những Đại Họa.

Kafka sinh trưởng trong một gia đình gốc Do Thái, tại Praha, thủ đô Tiệp ngày nay, thuộc đế chế Áo Hung lúc đó. Nhưng ông được đào tạo tại những ngôi trường Đức, ông tiếp thu văn hóa Đức và sáng tác bằng tiếng Đức. Như vậy, Kafka mang trong mình sự cộng hưởng của ba nền văn hóa : Văn hóa Do Thái, văn hóa Tiệp và văn hóa Đức. Sau này, giá trị tinh thần của sự nghiệp Kafka trở thành một di sản được cả ba nền văn hóa này khẳng định sở hữu và tranh giành bản quyền, hay ít nhất là đòi áp đặt một cách diễn giải riêng. Có lẽ, ảnh hưởng của ba nền văn hóa này vừa là chìa khóa của các tác phẩm, vừa là nguyên nhân gây xung đột trong tâm thức nhà văn.

Do đó, trước khi xem xét các cách tiếp cận, cách « đọc » Kafka, thiết tưởng nên tìm hiểu tiểu sử độc đáo của một nhà văn bị giằng co giữa nhiều « bản sắc », mà hơn nữa, vào thời điểm tài năng chín mùi, đứng ở vị trí bản lề lịch sử của châu Âu giữa thế kỷ 19 hòa bình và thế kỷ 20 kinh thiên động địa.

Kafka, đứa trẻ của chính sách đồng hóa người Do Thái

Franz Kafka lúc 5 tuổi, năm 1888
Nguồn: fr.wikipedia.org

Kafka sinh năm 1883 trong một gia đình gốc Do Thái đã bắt đầu được đồng hóa. Lúc trẻ, Kafka không mấy quan tâm đến gốc rễ Do Thái của mình, cho dù gia đình ông vẫn vào đền tham dự các buổi lễ quan trọng của Do Thái giáo. Nhưng, theo đa số các nhà nghiên cứu Do Thái hiện nay, Kafka càng trưởng thành càng cảm thấy mình lạc loài, như người mất gốc, mất lai lịch.

Phải nói thêm, cho dù người Do Thái đã di dân sang châu Âu từ ngàn năm trưóc, nhưng trong đế chế Áo - Hung, phải đợi đến 1848, tức là 35 năm trước khi Franz Kafka ra đời, cộng đồng người Do Thái mới được công nhận quyền bình đẳng. Trước 1848, người Do Thái bị đàn áp, khống chế rất dã man. Ví dụ điển hình là chẳng những họ bị đẩy ra sống ở ngoài lề xã hội, mà hơn vậy nữa, nhà chức trách giới hạn gắt gao việc tăng trưởng dân số người Do Thái với đạo luật : Chỉ có con trai đầu lòng của gia đình người Do Thái được quyền kết hôn và lập gia đình. Điểm quan trọng ở đây là Kafka đại diện cho thế hệ thứ hai, kể từ khi người Do Thái được đồng hóa, trong khi ông cụ nội của Kafka còn phải bị lưu đầy, suýt không được quyền lập gia đình, nếu sự kiện 1848 không diễn ra. Hoàn cảnh này cũng đáng lưu ý trong sự hình thành của tâm thức Kafka. Gốc gác này còn hiển hiện trong Nhật ký của Kafka. Năm 1911, ông viết : « Tôi tên là Amschel trong tiếng Hebreu (Do Thái) như ông cụ nội của mẹ tôi ».

Praha vào đầu thế kỷ 20 cũng là một thủ đô đa sắc tộc với ba cộng đồng chung sống tại đây. Đông nhất là người Tiệp, cư dân Đức thì giàu có và thiểu số người Do Thái. Nhưng tiếng Đức là ngôn ngữ chính thống của đế chế Áo - Hung. Bởi vậy, người Do Thái Praha thuộc thành phần khá giả, như gia đình Kafka, cho con học tiếng Đức hầu thăng tiến trong xã hội.

Tuy nhiên, sự kỳ thị, bài xích người Do Thái vẫn tiềm ẩn trong các xã hội Âu châu đương thời. Lâu lâu lại nổi lên các tin đồn là dân Do Thái giết người để tế lễ. Vì vậy, tại Praha, năm 1901, diễn ra nhiều cuộc biểu tình ầm ĩ chống Do Thái, hay tại Pháp, nổ ra vụ án Dreyfuss cuối thế kỷ 19. Phải đợi đến đầu thế kỷ 20, năm 1906, sĩ quan này mới được phục hồi tại Pháp.

Một dấu hiệu khác cần quan tâm là Kafka về cuối đời, nảy sinh ý định di tản sang Palestine, nơi người Do Thái xem là quê hương lịch sử của mình. Tất cả những người bạn của Kafka đều mang gốc gác Do Thái, như Max Brod. Sau này, Max Brod đã định cư tạ Palestine và viết lời đề bạt cho những tác phẩm của Kafka. Theo người đã được Kafka ủy thác thực hiện di chúc, đồng thời là người bạn tâm giao, hiểu biết cặn kẽ nhất về Kafka, đã cùng với Kafka chu du Âu châu, thậm chí dẫn dắt nhau vào các nhà thổ hưởng lạc, thì «Vụ Án» và «Lâu Đài» là hai tác phẩm anh em sinh đôi. «Vụ Án» là hành trình đi tìm công lý, trong khi «Lâu Đài» là biểu tượng của «Phúc Phận», biểu tượng của «Ân Huệ», tiếng Pháp : La Grâce). Đó là hai khái niệm thần học của Do Thái giáo mà theo sách thánh Kabbale, cho phép con người cảm nhận được sự hiện diện của Thượng Đế.

Mê cung của lịch sử

Bên trong nhà thờ Chartres, Pháp

Bên cạnh ý nghĩa mang tính tâm linh vừa kể, tiểu thuyết và cả truyện ngắn của Kafka nữa hàm chứa rất nhiều ẩn dụ. Đó là những văn bản đa nghĩa – textes polysémiques – thúc đẩy các thế hệ độc giả bốn phương đi tìm lời giải.

Nhưng quan trọng không kém là khung cảnh lịch sử đầu thế kỷ 20 và đặc biệt là 20 năm đầu tiên, thời gian Kafka cầm bút trước khi qua đời năm 1924. Trong giai đoạn này, điều chưa từng thấy tại châu Âu là đại họa Thế Chiến. Đây là khái niệm chiến tranh toàn diện giữa các cường quốc như Nga, Pháp, Áo – Hung, Phổ, Ý và Anh Quốc. Bởi vậy, theo tất cả những chứng từ còn lưu lại từ ấy cho đến nay, con ngưòi Tây phương vào thời điểm đó có cảm giác lâm vào một mê cung thăm thẳm, trong khi cùng lúc sụp đổ tan tành ba đế chế vĩ đại : Đế chế Nga, đế chế Áo – Hung và đế chế Ottoman, tức Thổ Nhĩ Kỳ. Tại Vienna, thủ đô Áo – Hung, nhà văn Karl Kraus xuất bản quyển sách dài tựa đề : «Những ngày cuối cùng của loài người». Còn ngoại trưởng Anh, ông Edward Grey, vào lúc mà nước ông và Đức tham chiến, đã thốt rằng : «Các ngọn đèn đã chợt tắt trên toàn lục địa châu Âu. Chúng ta sẽ không thấy đèn bật sáng trở lại trước khi chúng ta nhắm mắt». Điều này cần nhấn mạnh. Đặc điểm chung của thế hệ trưởng thành những năm đệ nhất Thế Chiến, đó là họ đều linh cảm ít nhiều thế giới thân quen, gần gũi của họ một sớm mai đã tan vỡ, nhường chỗ cho bạo lực ở một chiều kích chưa từng thấy, báo hiệu những cuộc tàn sát tập thể dã man, phản nhân văn. Phải chăng nên nhắc lại ở đây những người đương thời không thể tin vào những điều họ nhìn thấy trước mắt và họ sẽ chứng kiến trong suốt nửa thế kỷ : 10 triệu người bỏ mạng trong cuộc chiến 1914 – 1919 và ít nhất là 54 triệu người chết trong cuộc chiến 20 năm sau đó. Còn bao nhiêu trăm triệu người lưu lạc trên toàn thế giới ?

Mê cung ở Nimègue - Hà Lan
Ảnh : HandigeHarry / fr.wikipedia.org

Loài người tất nhiên đã sống sót sau Đại Họa. Thế nhưng, từ lúc đó, các nhà trí thức châu Âu phỏng đoán toà kiến trúc kiên cố bảo vệ hòa bình của thế kỷ qua đã bị triệt hạ trong khói lửa. Sự an toàn không còn nữa trên thế giới này. Ở điểm này, Kafka hơn cả Joyce hay Proust, đã ghi chép lại cái không khí lo âu, sợ hãi bao trùm, sự mất mát nhân tính và những nẻo đường vô vọng của con người đi tìm sự cứu chuộc, điều sẽ diễn ra từ đệ nhất đến đệ nhị Thế Chiến, khiến cho sau này, ông được nhiều thế hệ tôn làm bậc thầy, vị tiên tri, cười ra nước mắt, báo hiệu con người sẽ không tài nào giải mã nổi thân phận chính mình.

Nhà văn Milan Kundera đánh giá : «Với Kafka, tiểu thuyết không còn là điều tự bạch của tác giả. Tiểu thuyết là cơ hội thăm dò ý nghĩa cuộc sống, khi thế giới đã trở thành mọt cái bẫy giam hãm con người».

Phần ba và cũng là phần chót của loạt bài về Kafka, với chủ đề : Tranh giành di sản Kafka.

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 11, 2023 6:12 pm

Đi tìm lâu đài của Kafka - Bài 3 : Tranh giành di sản của Kafka

Bảo Thạch - rfi

Franz Kafka Nguồn: fr.wikipedia.org

Đứng ở lằn ranh giữa ba nền văn hóa, ở khúc gẫy giữa hai thế kỷ, Kafka mất năm 1924. Phải đợi khoảng 20 năm, sau khi ông qua đời, thế giới mới sửng sốt phát hiện dòng văn được xem như lời sấm truyền.

Kafka, nhà tiên tri của chế độ toàn trị hay của địa ngục tư bản

Cách đọc Kafka của đông đảo độc giả hậu chiến từ những năm 40 có thể được xem là diễn giải chính trị. Người ta đã tiếp cận với Kafka như thể tiếp cận với một nhà tiên tri. Ở trung tâm các mạch ngầm tạo nên tác phẩm, dường như đã hiện hữu những điềm dự báo khốc liệt về một sự tiền định không lối thoát.

Văn chương của Kafka thôi thúc và cảnh tỉnh độc giả trưóc đại họa và mê cung. Sau đệ nhị thế chiến, không thể đọc «Vụ Án» mà không liên tưởng đến chế độ toàn trị, nơi công an, cảnh sát ngày ngày thẩm vấn bị can mà không cần đưa ra lời buộc tội. Từ Đông Âu sang Liên Xô và Trung Quốc, biết bao các vụ án dàn dựng, biết bao nạn nhân phải chứng minh mình vô tội, chứ không phải như thông lệ, guồng máy tư pháp chứng minh bị can phạm tội.

Có một nhà phê bình đã chua chát nhận xét : Dưới chế độ Staline, người dân Liên Xô không cần phải được diễn giải Kafka, mỗi khi về đêm khi họ nghe tiếng người lạ mặt đến xô cửa.

Nghịch lý ở đây, một lần nữa, bao trùm lên di sản Kafka khi quan sát thấy rằng Liên Xô đã kiểm duyệt tác phẩm của Kafka mãi đến cuối thế kỷ. Còn tại Tiệp và Đông Âu, văn chương Kafka hoàn toàn bị cấm đoán. Trong khi ở Tây Âu, Kafka được xem là « phản ứng đối với quyền lực vô hạn », lời của Theodor Adorno, thì tại các nưóc xã hội chủ nghĩa, Kafka bị các nhà mác-xít gán cho nhãn hiệu ngòi bút thể hiện sự « tha hóa của con người, trong một xã hội tư bản trì trệ, tù đọng », theo lời Georg Lukacs. Nói cách khác, các mâu thuẫn của đế chế Áo – Hung suy tàn, theo họ, đã phản ảnh vào các tác phẩm của Kafka để thể hiện « địa ngục tư bản ».

Các nhà sử học ghi nhận, năm 1963, nước Tiệp Khắc của thời kỳ chuyển tiếp sang chủ nghĩa xã hội mang gương mặt nhân bản đã toan phục hồi cho Kafka. Họ đã tổ chức một hội nghị thảo luận về Kafka. Trong không khí «tan băng», một số nhà tư tưởng như Roger Garaudy của Pháp, thuộc đảng cộng sản, nhưng chủ trương «đổi mới» đã bênh vực cho Kafka, xem các tác phẩm như «Vụ Án» và «Lâu Đài» là chim én báo hiệu mùa xuân. Ngay tức khắc, nhà tư tưởng Đông Đức của đảng cộng sản nước này, ông Alfred Kurella, đã bác bỏ và nói móc : «Đồng chí Garaudy đừng nhầm lẫn chim én với loài dơi ngủ ngáy suốt ngày trong các hành lang và tầng trệt của các lâu đài xưa cũ và các tòa án ». Ông Kurella gạt phắt mọi ý định phục hồi cho Kafka khi kết luận : «Kafka là nhà văn của sự tha hóa. Trong các nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta, không còn sự tha hóa của con người. Bởi vậy, không cần đến Kafka ».

Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này, theo tạp chí Literarny Noviny của Tiệp Khắc, hàng ngàn người dân Tiệp, trong sở làm, trong các cửa hàng, trên xe điện, mỗi khi phải đối mặt với muôn vàn khó khăn trắc trở hàng ngày, trong một xã hội tha hóa và bị thao túng, họ thủ thỉ thầm thì với người lạ mặt đứng gần : «Đúng là Kafka » và họ ngẩng mặt lên trời như tìm ngưòi làm chứng.

Còn người dân Liên Xô khi đọc được Kafka qua những văn bản truyền tay, ngay từ dòng đầu của «Vụ Án» : « Chắc hẳn có người bôi nhọ Joseph K, bởi vì chẳng làm điều gì nên tội, nhưng ông ta đã bị bắt vào một buổi sáng », thì họ đã tưởng rằng Kafka là nhà văn Nga đấy.

Kafka và lời sấm truyền về số phận nghiệt ngã của người Do Thái

Milena Jesenska (1896 - 1944) Nguồn: kafka-franz.com

Không chỉ ở Đông Âu, lối kiến giải chính trị cũng thịnh hành ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Đặc biệt là người Do Thái sống sót sau khi Đức quốc xã đã lùa vào lò thiêu 6 triệu đồng bào của họ và chửi rủa rằng «Chúng mày là loài sâu bọ». Người Do Thái cũng như đông đảo độc giả hậu chiến không thể đọc «Hóa Thân» và «Lâu Đài» mà không soi gương, ngỡ ngàng tìm thấy ở hành trình vô vọng của K định mệnh của dân tộc Do Thái truyền kiếp, vẫn là kẻ ngoại cuộc, người lưu vong không thấy nơi đâu chốn an toàn.

Ác mộng của Kafka đã biến thành sự thật. Nhiều người thân của Kafka đã không tránh khỏi lò thiêu Đức quốc xã. Milena, người tình của Kafka đã chết trong một trại tập trung của phát xít Đức. Mối đe dọa diệt chủng trong những bức thư của Kafka gửi đến Milena và Max Brod sau này được công bố, cho thấy Kafka đã ít nhiều linh cảm được tai họa này. Ở đây, các phê bình thuộc trường phái này còn minh chứng truyện ngắn «Trại Tù» - «La colonie pénitentiaire», báo hiệu cho thời đại diệt chủng mà Kafka đã tỉnh táo giải mã.

Tại Pháp, một Kafka siêu thực, hiện sinh

Tại Pháp, bản dịch đầu tiên của «Vụ Án» ra mắt vào năm 1933. «Lâu Đài» được xuất bản năm 1938. Phải đợi đến năm 1946, độc giả Pháp mới được thưởng thức tác phẩm «Châu Mỹ» sau nay được đổi tên là «Người mất tích». Còn tập «Hóa Thân» thì đến tay, độc giả Pháp năm 1938, sau khi đã được đăng trích đoạn trong 3 số của tập san Nouvelle Revue Française 1928.

Ngược dòng ngoảnh nhìn về mốc thời gian Kafka xuất hiện tại Pháp, có thể khẳng định bóng nhà văn này thật to lớn, bởi nó phủ lên hai trào lưu nghệ thuật mãnh liệt, sung sức nhất thế kỷ 20, đó là chủ nghĩa siêu thực và chủ nghĩa hiện sinh. Kafka đã mất quá sớm để có thể tiếp xúc với các bậc thủy tổ của hai trào lưu này : André Breton thuộc phái siêu thực, Jean Paul Sartre hay Albert Camus thuộc phái hiện sinh. Thế nhưng, ông đã báo hiệu sức bật của siêu thực, khi ông kết hợp ảo và thực, khi ông hòa nhập giấc mộng vào cuộc sống đời thường.

Điều này đã quá rõ trong văn chương Kafka. Ví dụ như trong «Lâu Đài», tòa nhà cứ sờ sờ trước mắt, nhưng K không tài nào tìm được ngõ vào. Lần đầu, con đưòng tưởng chừng dẫn vào cổng Lâu Đài, thì quanh co lại đưa K trở về khởi điểm. Có lần, tìm được người chỉ đường, thì K quá mệt mỏi, chợp mắt ngủ một giấc. Càng tìm hiểu và quan sát Lâu Đài, K càng cảm thấy mình lạc lối trong mờ bòng bong nghi vấn và lời nói dối.

Tượng Franz Kafka tại một công viên ở Ba Lan Nguồn: fr.wikipedia.org

Ở đây, bài học siêu thực đã được minh họa tài tình, khi cái nhìn về hiện thực trước mắt từ từ buộc K đạp đổ mọi điều khả tín. Với Kafka cũng như với các tín đồ siêu thực sau này, ranh giới giữa thực và ảo không còn nữa, trong tiểu thuyết. Sau trường phái siêu thực, những nỗ lực vô vọng của K được thế hệ hiện sinh hậu chiến của Pháp xem là biểu tượng của sự phi lý. Albert Camus đã giải mã Kafka như những ngụ ngôn của thân phận con người trở thành kẻ xa lạ trên thế giới này. Những mối lo âu, ám ảnh của Kafka được mô tả như nhịp cầu nối kết thế kỷ 20 hiện sinh với các bậc tiền bối như nhà triết học Kierkegaard, người đã cảnh báo : «Con người không còn khả năng trợ giúp hay cứu chuộc thời đại mình, mà chỉ còn có thể chứng kiến cái mất mát».

Từ Max Brod với «Phúc Phận» cho đến cái mất mát của thời đại, theo phái hiện sinh, đó là những dòng diễn giải chính yếu về Kafka. Nhưng còn vô số các học giả khác đề nghị xem xét Kafka theo lăng kính phân tâm học, hoặc ngược lại, giải phóng Kafka khỏi cứu cánh tôn giáo hay chính trị, trở về với một Kafka thuần thẩm mỹ. Hiện nay, có thể tập hợp hàng chục ngàn quyển sách nghiên cứu Kafka trong một thư viện khổng lồ. W.H.Auden, nhà thơ vĩ đại Anh Quốc đánh giá rằng : «Nêu danh một nhà văn mà vai trò đã ảnh hưởng sâu đậm đến thời đại của chúng ta không kém gì dấu ấn của Dante, Shakespeare hay Goethe, với các thế hệ đưong thời, thì người đó sẽ là Kafka».

Nếu chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của tiểu thuyết, một nghệ thuật mà mỗi vùng tối được phát hiện đều trở thành cái đẹp, thì hôm nay hay ngày mai, mặc ai cứ thuyết giảng, độc giả thế kỷ 21 cứ lần giở Kafka để nghe ngân vang trong lòng những ý tưởng được đánh thức, những tiềm năng được thúc giục. «Hãy cất bước tìm Lâu Đài, mặc dù đường đời nhiều nguy nan».

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 11, 2023 6:17 pm

Chí Blog

Review sách Thư Gửi Bố – Franz Kafka: cha và con, cuộc chiến không cân sức

Minh Chí

Nếu là người quan tâm đến các tác phẩm văn học nước ngoài, thì khó có ai không biết đến tên tuổi của Franz Kafka dù có thể chưa đọc tác phẩm của ông. Thư Gửi Bố là những lời phân trần mà Franz Kafka gửi đến người cha khi sự mâu thuẫn giữa hai bên ngày càng sâu sắc hơn. Tôi nghĩ rằng cuốn sách này là một trong những cuốn sách cần thiết nhất và quan trọng nhất mà chúng ta phải có trong tủ sách gia đình. Vì nó nói lên những sự thật đang tồn tại trong chính cuộc đời chúng ta, hoặc từng diễn ra trong đời các thế hệ trước chúng ta, hoặc nó sẽ diễn ra trong những thế hệ sau này. Mua về để đọc, để hiểu một phần của chính mình, để đừng trở thành một người cha như vậy, người cha trong Thư Gửi Bố.

Tôi không biết là khi con người vượt qua cái tuổi 30 thì sẽ có bao nhiêu người đủ nhận thức để nhìn lại cuộc đời mình và nhận ra rằng có rất nhiều sự khốn khổ đã diễn ra mà nơi nó xuất phát là từ gia đình, chính xác hơn là từ người cha. Lẽ ra mọi sự đã có thể trở nên tốt đẹp hơn nếu những người cha đó không có cái tôi quá lớn và không xem gia đình như là một vật sở hữu của họ. Bài này không nhằm vạch tội đấng sinh thành – người có công nuôi dưỡng và giáo dục chúng ta, nhưng có rất nhiều điều mà chúng ta phải nhận diện được để tránh, để không biến những đứa trẻ thành nạn nhân bất hạnh. “Người cha” mà tôi nói ở đây cũng chỉ là những con người bình thường, khi họ bắt đầu có con thì tuổi đời của họ phần lớn đều chưa quá 30, họ còn nhiều sự nông nỗi, nhiều thứ họ chưa thật sự nhận ra, chưa hiểu rằng những tác động mà họ tạo ra với con cái sẽ theo đuổi chúng suốt đời.

Thông thường khi người đàn ông có một đứa con trai, anh ta xem nó như là sự tiếp nối của mình, anh ta đặt nhiều kỳ vọng vào nó, muốn nó yêu thích những thứ mình yêu thích, muốn nó làm được điều mình chưa làm được. Anh xem con anh như một khối đất sét rồi nhàu nặn theo hình hài anh muốn, anh quên một điều vô cùng quan trọng, đó là cuộc đời đó là của nó chứ không phải của anh. Nhưng khi bị đặt vấn đề thì anh sẽ bảo rằng “điều đó tốt cho nó, vì lợi ích của nó”, phần đông chúng ta đều ngụy biện như vậy. Từ nhỏ thì cha của Franz muốn cậu phải trở nên mạnh mẽ như ông, phải tuân thủ tuyệt đối những tiêu chuẩn mà ông đặt ra, trong khi mĩa mai là ông hầu như chưa bao giờ tuân thủ những điều đó, không những thế, lối hành xữ của ông có thể nói là cực kỳ thô bỉ và tệ hại. Ông đối xữ với con mình như một bạo chúa, điều đáng sợ nhất không phải là sự đánh đập về thể xác, mà là sự trấn áp về tinh thần, liên tục liên tục không ngừng. Hãy tưởng tượng một đứa trẻ mỗi khi đối diện với cha thì đều cảm thấy run rẩy sợ hãi, nó không biết khi nào sẽ bị mắng, không biết từng việc nó làm có phạm sai lầm không.

Nếu ở ngoài xã hội, con người là một kẻ tương đối lịch thiệp, thì khi trở về gia đình họ lại trút sự bực dọc lên những người thân. Nếu họ phải cúi mình với ai đó bên ngoài, thì họ sẽ trở nên huênh hoang về chính họ với vợ và con. Nếu không thấy được quyền uy của họ được thực thi thì họ sẽ dùng đến những lời mĩa mai cay nghiệt, hạ nhục các thành viên bằng vô số những “công ơn” mà họ đã phải vô cùng vất vả mới có thể mang lại, khi đó đứa trẻ sẽ cảm thấy nó có lỗi vì đã trở nên vô ơn bạc nghĩa, trong khi thực tế thì nó có biết gì đâu. Có biết bao đứa trẻ sẽ mang những gì học được từ người cha và trả lại cho đứa con của họ khi họ trưởng thành, sự việc ấy cứ tuần hoàn mãi, vì không phải ai cũng có đủ nhận thức để tìm lại quá khứ trong tâm hồn họ để mà gột rửa, kể cả một người như Franz Kafka cũng khó thoát khỏi sự giằng xé đó.

Chí Blog có kịch bản phim điện ảnh, ai mua không?

Franz Kafka chết khi tuổi chỉ mới 41, có lẽ ông đã có thể sống lâu hơn nếu tinh thần không mang những chấn thương tâm lý nghiêm trọng do người cha tạo ra, đó cũng là lý do những tác phẩm của ông đều mang màu sắc u tối. Khi phải viết bài review cho cuốn sách này thì tôi cảm thấy vô cùng bối rối, vì không biết phải diễn tả như thế nào, vì những gì mà Franz Kafka viết là vô cùng rõ ràng, rõ ràng một cách trần trụi, bạn sẽ hiểu khi đọc nó, bạn sẽ thấy vô cùng gần gũi và cứ như Franz Kafka đã nói hết nỗi lòng thay mình. Những gì mà Franz Kafka đã viết thì giá trị hơn vô số cuốn dạng kỹ năng về gia đình mà ta thường thấy trong nhà sách.

Vì vậy nên tôi chỉ có thể nhắc lại lời ở trên, các bạn nam nên đọc để đừng trở thành như vậy, các bạn nữ nên mua về cho người yêu hoặc chồng đọc, hoặc nếu bạn còn trẻ mà có một người cha quá khó khăn thì biết đâu nhờ vào sự may mắn nào đó, ông ấy sẽ cầm lên cuốn sách, đọc và ngẫm nghĩ lại chính ông để bớt khó khăn hơn. Tôi nghĩ rằng nếu mỗi gia đình ở VN đều có cuốn sách này, thì vô số điều bất hạnh không diễn ra. Trước khi kết thúc bài này thì tôi xin nhắc nhở một chút, giá trị cuốn sách ở chỗ sau khi đọc thì con người sẽ hiểu những gì họ chưa hiểu để cải thiện, nhờ đó ít đi sự cay ghiệt và nhiều hơn sự cảm thông; chứ không phải đọc để mà đổ lỗi cho quá khứ hoặc làm tăng sự oán hận, vì xét cho cùng thì mỗi người chúng ta đều là sản phẩm từ chính hoàn cảnh tạo nên mình, ông bà hay cha mẹ nếu có lầm lỗi thì cũng do cái hoàn cảnh của họ khiến họ trở nên người như vậy, không ai có thể trở về quá khứ để làm cho mọi việc khác đi, điều có thể làm là hiện tại và tương lai, thay đổi từng chút một để nỗi buồn ít đi và niềm vui được nhiều hơn.

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 11, 2023 6:26 pm

Review Sách Hóa Thân - Kafka

Dembuon

Kafka đã là người mở đầu cho khuynh hướng viết về thân phận con người trong xã hội phi lý. Ông là người đã sớm có những cảm nhận sâu sắc và thấm thía về sự tha hóa, nỗi lo âu, sự lưu đày và cái chết của con người thời hiện đại, về việc thế giới ngày càng trở nên vô hình và bí ẩn, về sự thù địch của hoàn cảnh đối với con người. Truyện ngắn "Hóa thân" đã xây dựng được một hình tượng đầy ám ảnh về thân phận con người cô đơn, lạc loài phải sống kiếp lưu đày ngay trong ngôi nhà thân yêu của mình.

G. Samsa - nhân vật chính của truyện - vốn là một nhân viên chào hàng cần mẫn và nghiêm túc, là chỗ dựa và niềm tự hào của gia đình.. song một sáng tỉnh dậy, Samsa "thấy mình đã biến thành một côn trùng khổng lồ. Lưng anh rắn như thể được bọc một lớp giáp sắt, anh nằm ngửa dợm nhấc đầu lên nhìn thấy bụng mình khum tròn, nâu bóng phân chia làm nhiều đốt cong cứng đơ, tấm chăn bông đắp trên bụng đã bị xô lệch, gần tuột hẳn. Chân anh nhễu ra, mảnh khảnh đến thảm hại so với phần còn lại của thân hình to đùng, vùng vẫy bất lực trước mắt anh". Và tiếp đó là những chuỗi ngày ê chề, đau khổ và bi đát của Samsa. Những người thân trong gia đình, từ bố, mẹ tới cô em gái Grete mà anh vô cùng yêu quý bỗng dưng trở thành những người xa lạ: Họ khiếp sợ, khinh bỉ và căm thù anh. Còn anh, sau cuộc hóa thân, đã có dịp để ngẫm nghĩ lại cuộc đời mình - cuộc đời mà trước đây, mải miết chạy theo guồng quay của cuộc sống, dường như chưa bao giờ anh kịp suy nghĩ. Từ đôi mắt họ, anh mới choàng tỉnh ra bao nhiêu điều: Anh nghĩ tới những người bạn đồng nghiệp "sống như cung tần mĩ nữ.. mình chạy suốt sáng quay lại khách sạn để ghi số các đơn hàng, thấy chúng mới ngồi vào bàn điểm tâm". Anh nghĩ tới lão chủ dị bợm và tự dưng chán ghét cái nghề của mình, anh nghĩ tới mẹ, em gái và bố, đặc biệt là bố, sao lại có sự thay đổi nhanh đến như vậy, "đây có đúng là người cha mà anh đã từng hình dung.. Bố anh, người thường mệt mỏi nằm bẹp trên giường.. người thường khoác áo ngủ nằm dài trên tràng kỷ không thể đứng dậy nổi..", vào những dịp hiếm hoi ra đường "ông quấn kín người trong chiếc áo bành tô dầy cộm, lê bước nặng nhọc với sự trợ giúp của chiếc gậy cán cong..". Giờ đây, đứng trước mặt anh là một người đàn ông đường bệ và đầy uy quyền, tin rằng "để đối xử với anh thì chỉ có những biện pháp hà khắc nhất mới thích hợp". Mọi sự nỗ lực của Sạmsa nhằm làm cho mọi người hiểu mình, nhằm bày tỏ tình cảm đối với những người thân, chỉ càng đào sâu thêm hố ngăn cách: Từ sự kinh hoàng, sợ hãi trước sự biến dạng của anh, mọi người chuyển sang thái độ ân cần, thương hại, rồi nhanh chóng trở nên thờ ơ và cuối cùng hoàn toàn trở nên xa lạ, không những thế họ còn xem anh như một vết nhơ, một nỗi nhục nhã, một sự đe dọa đối với cuộc sống của mình. Cả gia đình tỏ ra nhẹ nhõm, sung sướng như trút được gánh nặng trước cái chết của anh. Chúng ta hãy chú ý tới chi tiết này, chi tiết nói về sự nỗ lực của Samsa vượt lên trên mọi nỗi đau thể xác, sự mặc cảm xấu hổ về hình hài của mình để lết đến bên cạnh cô em gái, tìm cách an ủi, động viên cô khi cô chơi đàn, tâm sự với cô về những dự định tốt đẹp của anh dành cho cô.. Song những tình cảm đẹp đẽ ấy của anh không những không ai cảm nhận được, không ai hiểu được, mà hành động của anh còn là nguyên cớ làm bùng lên sự giận dữ của cả nhà, dẫn đến quyết định: Anh phải chết. Rõ ràng, Samsa và gia đình, đồng loại đã là những con người hoàn toàn xa lạ. Họ không cùng một "kênh" giao tiếp, họ thuộc về những thế giới khác nhau.

Cảm giác xa lạ của con người về thế giới còn được đẩy lên một mức cao hơn - sự xa lạ với chính mình. Hình tượng đầy ám dụ - G. Samsa bị biến thành bọ, chính là biểu tượng bi đát về sự tha hóa, lạ hóa của con người. Không những không cắt nghĩa được thế giới, mà ngay với chính bản thân mình, con người cũng không thể hiểu nổi. Cuộc sống sẽ đi về đâu, khi ngay cả chính mình cũng không còn là mình, không thể tự lí giải - mình là ai?

Trong đời sống tinh thần người phương Đông, với cái nhìn nhất thể về vũ trụ, với quan niệm "thiên nhân tương đồng", con người dù cô đơn vẫn còn có một điểm tựa tinh thần, đó chính là thiên nhiên. Đến với thiên nhiên, hòa mình trong đó, con người không chỉ tìm được sự thảnh thơi trong tâm hồn, mà còn có cảm giác như được trở về với ngôi nhà thân yêu, đầy ấm cúng của mình. Vì thế, khi muốn diễn tả sự cô đơn cực độ, các nhà thơ cổ phương Đông thường đặt con người trong một không gian rộng lớn vô biên, xa lạ. Ở đó, họ không tìm thấy một hình ảnh gì thân thuộc, gần gũi với mình, con người như lạc vào một không gian, một thời gian nằm ngoài dòng chảy của cuộc đời. Bài thơ bất hủ của Trần Tử Ngang cũng phần nào nói lên điều ấy: "Tiền bất kiến cổ nhân. Hậu bất kiến lai giả. Niệm thiên địa chi du du. Độc thương nhiên nhi thế hạ" ( "Đăng U Châu đài ca").

Như vậy, nếu như trong nghệ thuật phương Đông, nỗi cô đơn của con người thường được tô đậm trong sự đối lập với không gian mênh mông xa lạ, thì trong sáng tác của F. Kafka cũng như các nhà văn chương Tây sau này, con người cô đơn, lạc lõng ngay trong những không gian quen thuộc và gần gũi nhất. Con người xa lạ ngay giữa cuộc sống cộng đồng, xa lạ với người thân, thậm chí với chính mình. Vì thế, dù hình ảnh con người cô đơn, lạc lõng vốn không phải là hoàn toàn mới mẻ, lạ lẫm trong đời sống văn học song đến Kafka, nó vẫn tiếp tục tạo nên những xúc động lớn lao.

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 11, 2023 6:31 pm

(Review sách) Hoá thân – Franz Kafka

phucnt - spiderum

Anh phải biến mất, ý nghĩ đó nung nấu trong anh còn mãnh liệt hơn cả em gái mình – nếu như anh có khả năng thực hiện được.

Kafka – thần tượng của thần tượng – hay vô số mỹ từ khác mà chỉ cần google 1 chút về ông là có thể thấy. Tôi thì không am hiểu lịch sử văn chương tới vậy, nên chỉ biết Kafka thông qua tác phẩm “Kafka Bên Bờ Biển” của Haruki Murakami. Khi đọc cuốn đó, biết được Kafka là tên của một nhà văn có thật, được Murakami ưu ái sử dụng làm tên cho cả cuốn sách, nên cũng có chút tò mò. Mãi gần đây mới có dịp mua được sách của ông. Bắt đầu bằng “Hoá Thân”, một câu chuyện với chỉ hơn 100 trang, nhưng được ca ngợi hết lời.

2. Về tác phẩm
Truyện kể về chàng trai Gregor Samsa, là trụ cột về tài chính trong gia đình có bố, mẹ và em gái, rồi một ngày cậu mất đi khả năng lao động, từ đó những biến chuyển trong tâm lý và hành động của các thành viên trong gia đình bắt đầu.

Đầu tiên là về bối cảnh. Câu chuyện chỉ diễn ra trong căn nhà của gia đình nhân vật chính, nên các yếu tố như văn hoá, địa lý hay lịch sử đều không xuất hiện. Toàn bộ tác phẩm chỉ tập trung vào quan hệ giữa người với người, và cũng do gạt bỏ hoàn toàn các yếu tố ngoại cảnh đó, nên câu chuyện này vẫn đúng cho tới tận ngày hôm nay.
Tiếp theo là dàn nhân vật. Bối cảnh là trong một căn nhà, nên dàn nhân vật cũng không thể cơ bản hơn: gồm bố, mẹ, em gái và nam chính. Nên mối quan hệ giữa người và người được nhắc tới ở trên cụ thể là mối quan hệ trong gia đình, nơi hôm nay là mái ấm, ngày mai rất có thể trở thành địa ngục mà ai cũng muốn thoát ra. Ngoài ra còn 1 vài nhân vật phụ nữa, họ đại diện cho các mối quan hệ khác như chủ-tớ, khách-chủ, góp phần tạo tình tiết cho những chuyển biến của gia đình Samsa.

Cái nữa là về yếu tố kỳ ảo (chà, nhớ Murakami ghê). Kafka đã để nam chính bị mất khả năng lao động bằng cách… biến cậu thành một con bọ khổng lồ. Đây cũng chính là cách mà tác giả hình tượng hoá tiêu đề “Hoá thân” của tác phẩm. Chẳng giải thích, chỉ đơn giản là kể ra, coi nó là hiển nhiên và để độc giả tự chấp nhận, giờ thì tôi biết Murakami học từ ai rồi.

Cuối cùng là thông điệp của tác phẩm. Trách nhiệm, đó là điều đầu tiên dễ dàng nhận ra, khi câu chuyện đề cập tới việc mất khả năng lao động. Khi cả một gia đình bị phụ thuộc kinh tế vào 1 người, thì từ những việc cơ bản nhất như cái ăn, chỗ ngủ, nếp sinh hoạt hay to lớn hơn nữa là giấc mơ của bản thân, đều sẽ lật nhào khi lao động chính đó không thể đi làm được nữa. Và nó là tiền đề để những vấn đề và thông điệp khác về bản tính con người xuất hiện. Nhiều lắm, tất cả đều đầy sức nặng, và tuyệt nhất là mọi thứ được gói ghém chỉ trong hơn 100 trang sách.

Tóm lại, Hoá Thân là một tác phẩm chuẩn mực (thể hiện qua 3 chương tương ứng với cấu trúc 3 hồi truyền thống), ngắn gọn, kết hợp với yếu tố kỳ ảo để truyền tải các thông điệp liên quan tới bản chất con người khi đối mặt với biến cố. Truyện kinh điển tới mức được đưa vào nhiều chương trình giảng dạy và được phân tích “nát” ra rồi, nhưng vì nó ngắn và dễ đọc, nên hãy thử nếu có cơ hội nhé!

3. Tản mạn
Ai đã hoá thân?
Tất nhiên là nhân vật chính đã hoá thân rồi, biến hẳn thành một con bọ cơ mà. Ấy thế mà người ta lại dễ quan tâm tới màn hoá thân của 3 thành viên còn lại trong gia đình Samsa hơn.

Gia đình đấy, máu mủ đấy, nhưng để tồn tại trong thực tế đầy khắc nghiệt này, thì ngay cả gia đình hay máu mủ cũng đều có thể quay lưng lại với ta, khi ta không còn là những gì mà họ kỳ vọng hay tin tưởng được nữa, thậm chí, ta cần bị loại bỏ để khỏi làm vướng chân họ.

Một người cha tưởng như đã có thể phó mặc hoàn toàn việc nuôi sống gia đình cho con trai, nay phải quay trở lại làm việc trong nỗi ấm ức và khinh thường. Một người mẹ tưởng như có thể thương yêu con đẻ của mình trong mọi hoàn cảnh, nhưng cuối cùng cũng không đối mặt được với thực tại để làm tròn bản năng làm mẹ của mình. Một cô em gái có giấc mơ và tương lại bị phụ thuộc vào sự chu cấp của người anh, có cố gắng chăm sóc khi Gregor rơi vào nghịch cảnh, nhưng hoá ra chỉ để níu kéo hi vọng nhỏ nhoi cho giấc mơ của mình, rồi cuối cùng cô là người đầu tiên nói ra rằng phải tống khứ anh trai mình ra khỏi nhà.

3 người thân với 3 mức độ yêu ghét khác nhau, nhưng đều bị cái hiện thực nghiệt ngã ép phải hoá thân, phải sống với bản chất thật. Và rồi sự ra đi của Gregor như một sự giải thoát với họ, và trớ trêu thay, sau đó, có vẻ như cuộc sống của họ đã dễ thở và nhiều hi vọng hơn.

Vậy đó, thật khó (và vô nghĩa) khi phân định ai đúng ai sai, ai cũng có lý do và động cơ của sống theo cách của riêng mình. Liệu có một nơi hay một ai có thể vô tư chấp nhận và yêu thương một người, dù người đó bỗng nhiên không còn như ta kì vọng??

Phúc

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sun Mar 12, 2023 5:26 am

Tiểu luận John M. Ellis, Đọc Kafka như thế nào: Phần I

Zét Nguyễn và Ally Le

(Bài viết thuộc Zzz Review số 6, 31-7-2019)

Phần đầu tiên trong xê ri hai phần về nhà văn đã làm thay đổi quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa duy lý hiện đại.

Các tác phẩm của Kafka nổi tiếng kỳ dị và bí ẩn, và vì thế mà người đọc thường phải cầu cứu những người kiếm sống bằng nghề đọc và bình luận văn học – không ai khác ngoài các nhà phê bình văn học. Nhưng các vị này cũng thường chỉ đưa ra những ý kiến vô cùng chung chung và mơ hồ đến mức những lời bình luận đó có thể áp dụng vào bất kì một nhà văn nào trong số hàng trăm nghìn cây viết ngoài kia. Một quan điểm mà phần đông yêu thích chính là Kafka đã nói gì đó vô cùng quan trọng về thời hiện đại của chúng ta. John Updike cho rằng Kafka là nhà ngụ ngôn siêu đẳng nói lên những nỗi niềm suy tư trăn trở mang tầm cỡ vũ trụ của con người hiện đại, nghe thì thật là sâu sắc uyên thâm, nhưng Updike cũng không bao giờ giải thích rằng những nỗi niềm đó là gì hay vì sao chúng lại tầm cỡ đến thế, cũng không nói được cho ta hay rằng Kafka đã nói gì về những trăn trở này. Irving Howe cũng tin rằng Kafka chính là hiện thân của ý thức hiện đại, và giải thích thêm rằng qua văn chương Kafka ta thấy “những trải nghiệm ngột ngạt của đời sống hiện đại, nỗi hoang mang, sự mất mát, tội lỗi, và sự chiếm đoạt.” Thế nhưng danh sách toàn những cảm xúc này đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử nhân loại – chứ chẳng riêng gì những thời “hiện đại”. Các nhà trí thức của thế kỷ 20 luôn tự tin rằng mình đã cầm trịch được nỗi bất an – nhưng lẽ dĩ nhiên họ làm sao mà hiểu hết được.

Max Brod, một người bạn của Kafka, cũng đặt ra một ý kiến khác được ưu ái không kém: trong văn chương Kafka, “những ảo mộng và viễn tượng sâu sắc đến mức không thể đo đạc được mải miết trôi dưới bề mặt hiền hòa êm ả.” Nhưng đến nước này rồi thì người đọc không thể không cảm thấy bị lừa dối. Tại sao Brod không nói cho chúng ta hay những ảo mộng và viễn tưởng đó là gì? Những câu khẳng định chung chung vô cùng hoành tráng (cùng vô số lời tương tự) dường như chỉ đơn thuần là cách né tránh một cuộc thảo luận thực thụ về việc Kafka nói gì với chúng ta, bởi vì quả thật rất khó để có thể bàn luận những văn bản văn chương vô cùng kỳ quái này.

Vậy làm sao để bắt đầu nói về những thông điệp của Kafka? Cần đọc tác phẩm của Kafka như thế nào? Hãy bắt đầu từ một ấn tượng vô cùng sâu đậm: Kafka luôn luôn lý tính đến mức quá đáng. Bất luận chủ đề trong truyện có kỳ lạ đến đâu, mọi thứ đều được giải thích kỹ càng, mọi tiểu tiết được săm soi kỹ lưỡng. Một ví dụ điển hình xuất hiện ở ngay chương đầu tiên của tiểu thuyết Lâu đài (Das Schloss) khi nhân vật chính K. đang cố tìm đường đến toà lâu đài. Anh đang bước đi trên con đường chính của ngôi làng nằm dưới chân lâu đài, nhưng “con đường chính này của làng tuy không rời xa Lâu đài, xong cũng không xích lại gần hơn.”[1] Đây đích thị là một mô tả hết sức chính xác, nhưng lại dẫn K. (và cả người đọc) chẳng đi đến đâu. Kafka vẫn thường cho ta những suy luận và lý giải vô cùng tỉ mỉ mà khi đọc xong ta vẫn mãi dậm chân tại chỗ.

Tại sao ông lại làm như thế? Công cuộc tìm kiếm câu trả lời của chúng ta sẽ bắt đầu với câu chuyện mà Kafka dành riêng cho chính vấn đề này: mặt lợi, mặt hạn chế, và những thảm họa mà lý tính gây nên. Đó là truyện ngắn “Der Bau” (“Cái hang”).

“Cái hang” kể về một con vật (không rõ đích xác là con gì) đi đào một cái hang để phòng thân. Thoạt nhìn đây chỉ là một việc cần lao động chân tay đào bới, nhưng với con vật của Kafka đây lại là hẳn cả một nhiệm vụ cần đến lao động trí óc. Cần phải có “những tính toán khó nhọc”[2], và niềm vui mà bộ não tinh khôn đó có được từ những hành động của mình là động lực thúc đẩy con vật tiếp tục làm việc. Nó phải tạo được cái hang hoàn hảo nhất, lá chắn phòng thủ tốt nhất có thể.

Câu chuyện này làm ta nhớ ngay đến một truyện cổ tích khác cũng kể về những con vật xây lá chắn hoàn hảo: Ba chú lợn con. Con đầu tiên xây nhà bằng rơm, con thứ hai xây nhà bằng cành cây khô, nhưng cả hai con đều không chống lại được chó sói. Con thứ ba thì đủ khôn để nhận ra xây nhà bằng gạch sẽ đuổi được chó sói đi. Mọi việc đều rất hợp lý và logic. Bài học rút ra từ câu chuyện này chính là lý tính và sự thận trọng sẽ đem lại an toàn cho ta. Nhưng thế giới của Kafka thì lại không dễ dàng đến thế, bởi lý tính và sự thận trọng lại chính là hai tác nhân làm cho cuộc sống trở nên vô cùng khó khăn.

Mở đầu câu chuyện, con vật của Kafka kể cho ta hay rằng nó đã xây xong cái hang và trông có vẻ là thành công rực rỡ rồi. Mọi việc đến đây đều hết sức tốt đẹp. Nhưng nó không thể ngừng suy đi tính lại về thiết kế của cái hang và tự vấn bản thân về những điều có thể làm khác đi. Công việc chân tay đã xong nhưng lao động trí óc thì không bao giờ ngưng.

Nó đã làm lối vào hang bằng một lớp rêu mỏng để dễ tẩu thoát trong trường hợp có kẻ đột nhập vào hang, nhưng vì thế cũng giúp kẻ thù dễ xông vào. Nó nghĩ, lẽ ra nó nên che lấp miệng hang bằng một lớp đất cứng để kẻ thù khó có thể xâm nhập, nhưng như thế lại khiến chính nó khó chạy thoát nếu kẻ thù đã kịp đào một đường khác để chui vào trong. Làm thế nào đây: một lối vào vừa khó trốn thoát vừa chống đột nhập, hay ngược lại? Đây là một câu hỏi không có lời giải đáp. Có lúc nó còn tính đến việc làm hẳn hai lối vào – nhưng như vậy cũng chỉ làm nguy hiểm nhân đôi.

Nó đã đặt một mê cung ngay dưới lối vào để làm kẻ thù rối trí, nhưng sau khi suy nghĩ lại thì nó lại nhận ra làm vậy chỉ tổ tốn công vô ích: mê cung thường có những vách tường ngăn mỏng manh mà kẻ đột nhập chỉ cần đạp đổ là có thể vượt qua ngay.

Nó đã đặt một chiếc cổng giả cách cái hang thật một đoạn. Đằng sau cánh cổng đó trống trơn chẳng dẫn đến đâu cả, chỉ dùng để đánh lạc hướng kẻ thù khỏi cái hang thật, nó nghĩ thế. Nhưng nó cũng lại tự thấy rằng làm như thế chẳng khác nào chưa đánh đã khai rằng “lạy ông tôi ở bụi này”. Nếu có một cái cửa giả thì khả năng bị tấn công sẽ giảm đi nhờ sự đánh lạc hướng hay lại tăng lên vì bật mí rằng có gì đó “hay ho” đang diễn ra? Ai mà biết được?

Nó đã xây xong một cái hang vô cùng hoành tráng, với nhiều lối đi và các phần phụ. Đó là một pháo đài vô cùng ấn tượng. Nhưng bẵng đi một thời gian nó lại nhận ra làm hang to quá sẽ khiến những loài đào hang khác dễ đụng vào. Cuối cùng nó hoàn toàn quay ngoắt thái độ đối với cái hang hoành tráng này: nó nhận ra rằng chính cái hang lớn nhưng dễ tấn công này sẽ khiến nó khó mà bảo vệ bản thân. Nó đi ra ngoài và thử xây một cái hang khác không to hơn người nó là bao. Cái này thì khó phát hiện hơn – nhưng mặt khác lại không có lối thoát hiểm nếu bị bại lộ.

Kể cả địa điểm được chọn để xây hang cũng lại là một câu hỏi không lời giải khác: con vật đã xây hang ở một nơi hoang vắng ít người qua lại để không bị theo dõi mỗi khi đến và đi, nhưng đột nhiên nó lại nghĩ rằng nơi đông đúc người qua lại có khi lại che chắn tốt hơn.

Chú lợn con thứ ba đã tìm ra cách bảo toàn tính mạng: để sống sót bạn phải trở nên thông minh và cẩn trọng, và làm việc chăm chỉ. Nhưng với con vật của Kafka, mọi đặc tính xây dựng mà nó suy xét đều vừa có lợi vừa có hại.

Mặc dù con vật này một mực theo đuổi lý tính và đã nói rõ ngay từ đầu rằng nó đã thiết kế một cái hang hoàn hảo bằng sức mạnh của việc lập luận, nó đã vô tình để lọt một thứ vào trong những toan tính bất tận mà không một phép tính nào có thể dự đoán được: niềm kiêu hãnh của nó đối với cái hang này. Vì nó tự hào về cái hang nên càng cảm thấy mình phải bảo vệ nó. Nhưng kiêu hãnh nằm ngoài lý tính, hay chính ra, thứ cảm xúc ấy càng khiến con vật trở nên phi lý tính hơn. Dần dà, nó trở nên lo lắng quá đà về sự an nguy của cái hang, cứ như thể đó mới chính là cái cần bảo vệ chứ không phải bản thân con vật. Nhìn ngắm vật mà nó vô cùng yêu thương khiến con vật vui đến không nói nên lời, và nó cảm thấy như thể mình đang canh gác chính mình. Nhưng giờ đây mối quan hệ giữa nó và cái hang đã hoàn toàn đảo lộn: lẽ ra cái hang phải bảo vệ nó, nhưng giờ đây ngược lại nó đang xả thân bảo vệ cái hang.

Nó không thấy gì hết và quyết định trở ngược vào trong, nhưng cũng vừa kịp tạo ra một vấn đề suy lý khác, một câu hỏi không thể nào trả lời được. Làm sao để trở vào trong? Khi nó nhấc tấm che cửa lên, bước vào hang, rồi đậy lại, làm sao nó biết được liệu lúc đó kẻ thù có đến và thấy nó đang đóng cửa hay không? Tất nhiên, nó có thể mở cửa lên nhìn ngó xem có ai xung quanh không, nhưng khi đóng cửa câu hỏi đó sẽ lại xuất hiện.

Qua đó chúng ta thấy cẩn trọng thật khó sánh vai cùng lý tính: cẩn trọng bao nhiêu là đủ? Cẩn trọng nên đóng vai trò là một phương pháp để đạt tới cái đích cuối cùng là một cuộc sống mãn nguyện, và vì thế nếu nó trở thành một công việc toàn thời gian như đối với con vật thì chẳng khác nào phản lại chính mục tiêu ban đầu. Nhưng vấn đề ở đây chính là không có một câu trả lời nào hợp lý cho câu hỏi: chúng ta cần bao nhiêu thời gian để lên một kế hoạch thận trọng? Nếu chúng ta mong muốn cẩn trọng, vậy thì thận trọng thêm nữa chẳng phải rất đáng mơ ước sao? Con vật bị ám ảnh với việc phải thận trọng đến mức nó đẩy chính bản thân mình vào hiểm nguy cùng cực, ví dụ như khi nó bước ra khỏi hang để trông chừng cái hang đấy. Bản thân con vật này chính là minh chứng cho nghịch lý: “Cẩn trọng đòi hỏi ta liều mạng.”

Con vật bắt đầu câu chuyện với lời kể hết sức hào hứng phấn khởi rằng cái hang của mình là một thành công vang dội, nhưng những câu hỏi không lời giải đáp cứ dần chất chồng chất chứa khiến nó nhận ra công sức của mình đều đổ sông đổ bể. Để quên đi mọi cố gắng tay chân và những lần lao tâm khổ tứ, nó tự đổ tại bản thân mình đã quá lười nhác không suy nghĩ thấu đáo: nó đã lơ là và dành hết những năm tháng trưởng thành vào những trò trẻ con. Nhưng nó vẫn không thể quên đi ước mơ xây một cái hang hoàn hảo vì nó khăng khăng rằng lập luận chính xác sẽ giúp mình đạt được mục tiêu. Nó tưởng tượng ra rằng nó có thể xây một cái hang theo như kế hoạch đã vạch sẵn ra từ khi còn trẻ, và làm như thế nó có thể quên hết các vấn đề logic ngày đêm đeo bám. Nó mơ về những tiến bộ kỹ thuật vượt bậc, và chìm vào huyễn tưởng khi nghĩ đến sự xuất sắc về mặt lý thuyết của kế hoạch này. Nó nghĩ, bây giờ ta chỉ cần làm lại tất cả từ đầu! Trong những trang cuối truyện nó liên tục thay đổi giữa hai trạng thái tuyệt vọng và lạc quan, nhưng đến cuối truyện thì “tất cả vẫn không hề thay đổi”. Nó chưa giải quyết được những vấn đề này, và sẽ không bao giờ giải quyết được. Ngay từ đầu truyện, con vật tự nói với bản thân: “Tất nhiên, [quá nhiều] mưu mẹo [lại] tinh vi đến nỗi tự chống lại [mình].” Câu khẳng định đơn giản đó đã nói lên hết mọi sự xảy ra với nó. Lập luận – những lập luận vô cùng thấu đáo và kỹ lưỡng, nhờ ơn tác giả – đã biến thành nguồn cơn mọi rắc rối của con vật, thay vì là giải pháp. Cuối cùng con vật nghe một tiếng rít nhưng khi nó cố tìm nguồn gốc tiếng kêu này thì tiếng kêu lại không hề thay đổi âm lượng khi nó di chuyển, chứng tỏ rằng tiếng kêu này phải nằm trong đầu con vật. Nó đang chìm dần vào điên loạn.

Việc xác định thứ đã huỷ diệt con vật là bản thân lý tính nghe thật xa vời với tinh thần triết học Khai sáng, phong trào triết học đã có tuổi đời hơn một thế kỷ khi Kafka chào đời năm 1883. Với các nhà triết học Khai sáng, kiên trì áp dụng lý tính sẽ giúp giải quyết tất cả mọi vấn đề gây ra bởi sự ngu dốt của con người. Nhưng chuyện đó không hề xảy ra trong “Cái hang”. Trong truyện này, lý tính liên tục chạm trán với những câu hỏi không lời giải, và lẽ vì vậy mà con vật trở nên điên loạn vì không thể ngừng lập luận để tìm ra cách thiết kế cái hang hoàn hảo nhất có thể. Trong câu chuyện của Kafka, lý trí không thể vượt qua được những điểm yếu tinh thần của con người ta bởi vì điểm yếu chính là động lực thúc đẩy lập luận và hai thứ này hoà quyện chặt chẽ với nhau. Khi con vật cảm thấy vui vì sự tráng lệ của cái hang, nó đã vô tình đem đến cho sự nhiệt thành đấy một yếu tố phi lý tính. Cái hang không chỉ là một nơi trú thân đơn thuần – nó yêu cái hang đến mức tuyên bố rằng nó sẵn sàng chết trong cái hang và để máu chảy xuống nền đất đó. Cái logic của cái hang một lần nữa bị đảo ngược: đáng lẽ cái hang phải tồn tại để phục vụ con vật, nhưng giờ đây con vật lại hy sinh thân mình để bảo toàn cái hang.

Phong trào Triết học Khai sáng có thể bảo ta phải dựa hoàn toàn vào lý trí, nhưng “Cái hang” của Kafka chứng minh một điều rằng ta vẫn có thể dùng lý trí theo những cách phi lý nhất. Kafka vốn là một người hoài nghi về Triết học Khai sáng. Ông đã thấy được điều mà các triết gia Khai sáng không thấy được: rằng kể cả khi họ thuyết phục con người để lý trí dẫn đường thì bản thân con người vẫn giữ nguyên không đổi. Những người vốn được xem là làm điều đúng đắn thật ra chẳng khác gì mấy so với trước đây. Mặt phi lý trong họ không biến đi đâu cả: nó chỉ tìm cách khác để thể hiện ra ngoài. Nó sẽ lôi kéo rồi thông đồng với lý trí để thực thi những động lực, khát khao, và kể cả sự ngu dốt luôn luôn tồn tại trong mỗi chúng ta.

Các nhà triết học Khai sáng có niềm tin tuyệt đối với lý tính đến mức họ tin rằng nó sẽ dẫn lối cho ta đạt được những giá trị đạo đức cao hơn. Chẳng cần phải nói, Kafka cũng vô cùng nghi ngờ điều này. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, “Die Verwandlung” (Hoá thân), chính là nói về vấn đề này.

hoa than
Bìa bản dịch tiếng Anh của Oxford University Press.
Trong truyện ngắn này, Gregor Samsa đột nhiên biến thành một con quái vật có hình thù côn trùng vô cùng kỳ dị sau một đêm. Câu hỏi đầu tiên mà các nhà phân tích “Hoá thân” thường cố gắng giải thích là: chính xác thì Gregor Samsa đã biến thành con gì, và vì sao? Nhưng hai câu hỏi này tốt hơn hết là để dành cho sau khi ta giải đáp được hai câu hỏi sau đây: Đầu tiên, tình trạng gia đình của Gregor như thế nào trước khi anh biến hình? Và thứ hai, tình trạng gia đình của anh ra sao sau khi anh biến thành côn trùng và bỏ lại gia đình?

Đáp án câu hỏi đầu tiên khá là phức tạp. Nhìn bề ngoài Gregor là hình mẫu người con trai lý tưởng tận tuỵ gánh vác trọng trách gia đình. Năm năm trước đó công việc kinh doanh của cha anh thất bại và Gregor lập tức lao vào hành động: anh mong muốn giải cứu gia đình mình khỏi tình cảnh vô vọng, và vì thế anh bắt đầu làm việc điên cuồng và nhanh chóng trở thành trụ cột chính và duy nhất trong nhà. Không còn nghi ngờ gì nữa, Gregor đã làm điều đúng đắn: anh đã hành xử thật cao thượng.

Thế nhưng “công trình” hoành tráng này cũng đầy rẫy khiếm khuyết như cái hang lộng lẫy của con vật. Mặc dù Gregor rất tận tâm đóng vai người bảo hộ duy nhất của gia đình, anh lại xem bản thân mình là một vị thánh tử nạn. Anh ghét công việc mình đang làm. Việc thì vô cùng mệt mỏi, sở làm thì ngược đãi anh, và anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ở mãi vị trí vô cùng thấp kém đó để nuôi nhị vị thân sinh và cô em gái. Và để làm mọi chuyện tồi tệ hơn, anh cảm thấy rằng thái độ của gia đình đối với việc anh bao nuôi họ thiếu đi sự yêu thương ấm áp cần có.

Và vì sao lại như vậy? Chúng ta chỉ cần nhìn vào tình trạng của họ để biết vì sao. Cha anh đã không làm việc trong vòng năm năm, và chính xác hơn là không còn khả năng làm việc vì mập lên và trở nên hậu đậu. Ông dường như chỉ mặc áo ngủ ngồi không hoặc nằm vạ vật trên giường, khó khăn lắm mới đứng lên được, và nếu có đi ra ngoài thì cũng chỉ có thể lạch bạch những bước chầm chậm. Mẹ anh cũng không hề khá hơn chút nào: phần lớn thời gian bà nằm trên sofa, khó thở vì bệnh hen suyễn. Em gái anh, Grete, cũng trở nên vô dụng: cô ngủ rất nhiều, chỉ ham mê chưng diện quần áo đẹp và chơi violin, và đến cả hai vị phụ huynh cũng nghĩ rằng cô là thứ con gái vô tích sự.

Cả ba thành viên trong nhà đều ăn không ngồi rồi và cuộc sống của họ hầu như trống rỗng. Nhưng có một chi tiết vô cùng vô lý về cuộc sống của gia đình này: căn hộ mà Gregor thuê cho cả nhà không chỉ đủ chỗ mà lại còn xa xỉ và rộng hơn diện tích cần trên thực tế. Làm sao điều này lại hợp lý với việc Gregor căm ghét việc phải làm việc vô cùng vất vả để nuôi gia đình? Anh hoàn toàn có thể làm việc ít lại và thuê cho họ một căn hộ nhỏ phù hợp với nhu cầu hơn.

Chúng ta bàn về câu hỏi thứ nhất thế là đủ rồi, giờ hãy tiến đến câu hỏi thứ hai: chuyện gì xảy ra với cả nhà khi Gregor biến thành côn trùng, không thể nuôi họ thêm ngày nào nữa, rồi cuối cùng chết đi và biến mất khỏi cuộc đời họ? Câu trả lời chính là trong truyện ẩn chứa một sự hoá thân thứ hai – sự hoá thân của gia đình này. Vài tháng sau khi biến thành côn trùng, Gregor nấp sau cửa nhìn lén và thấy mọi người trong nhà. Cha anh giờ đây ăn vận một bộ đồng phục màu xanh thanh lịch với những khuy bấm bằng vàng để đi làm công việc mà ông tự xin được. Đôi mắt ông đã tìm lại sức sống vốn có và tóc chải lại gọn gàng. Hoá ra ông vẫn có thể đi làm để nuôi thân và gia đình này. Hai người phụ nữ trong gia đình cũng trải qua những thay đổi tương tự. Mẹ của Gregor nhận may quần áo cho một hãng quần áo thời trang, còn Grete vừa bán hàng vừa học lớp tốc ký và tiếng Pháp buổi tối để có thể tìm việc tốt hơn. (Ta sẽ quay lại bàn luận về tham vọng của cô ở phần sau.) Cả ba người bọn họ đều tràn trề sức sống và năng suất.

Tuy nhiên, điều mà tất cả đều vô cùng mong muốn chính là dọn ra khỏi căn hộ quá khổ mà Gregor đã đẩy họ vào. Nhưng họ đã không thể làm gì khi Gregor còn sống. Cuối cùng họ cũng phải đối mặt với vị trí thật sự của anh: anh là một nỗi phiền toái không hơn không kém, một nỗi phiền toái họ hoàn toàn vui lòng tống khứ. Gregor sớm chết đi, nhưng không có gì là đau khổ trong phản ứng của họ cả. Ngược lại, cả ba cùng nhau rời khỏi căn hộ, “điều mà bao tháng nay họ không có dịp làm,”[3] và cùng nhau lên tàu điện đi về miền quê. Cách ăn mừng này đáng chú ý không phải vì nó hào hứng gay cấn mà bởi vì nó chỉ là một việc bình thường xoàng xĩnh. Họ đã lấy lại được cuộc sống thường nhật của mình – cuộc sống đã bị Gregor tước đoạt.

Giờ đây ta có thể quay lại câu hỏi luôn luôn được đặt ra đầu tiên về câu chuyện này: Gregor đã biến thành con vật gì? Thực trạng gia đình giúp ta giải đáp thắc mắc này. Từ một thành viên trẻ tuổi trong nhà, anh đã trở thành một con thú săn lợi dụng sự yếu đuối của họ mà kiểm soát ngấu nghiến và vắt kiệt sức sống. Từ mà Kafka dùng để miêu tả con vật này là “ungeziefer”, nghĩa sát nhất chính là vật ký sinh/vật gây hại. Nhưng đó không phải là từ dùng để miêu tả đặc điểm vật lý hay tên gọi một loài sinh vật nhất định; nó được dùng để ám chỉ giống vật nào đó vừa ghê tởm vừa ăn hại. Sự thay đổi về mặt hình thức của Gregor chỉ là biểu hiện bên ngoài về sự thoái hoá của anh trong mắt họ. Anh đã làm cả gia đình hoàn toàn lệ thuộc vào mình và đẩy họ vào tình thế vô cùng khổ sở, nhưng khi anh không còn có thể thống trị được nữa họ đã vượt qua và quay trở lại trạng thái con người bình thường.

Vậy đây có phải một kết cục có hậu? Có lẽ không. Câu chuyện có cái kết vô cùng thú vị: “Và như để khẳng định cho những mơ ước mới mẻ cùng những ý đồ tốt đẹp của bố mẹ, đến cuối cuộc hành trình người con gái đứng phắt dậy trước tiên và vươn thẳng tấm thân thanh xuân phơi phới.” Sau tất cả những gì xảy ra với Gregor, hành động vươn vai của Grete chẳng khác nào một điềm gở: liệu cô cũng đang cảm thấy sức mạnh của mình tăng dần? Như Gregor trước đây, cô cũng đang học tập để có thể kiếm được thêm nhiều tiền. Liệu cô cũng sẽ dùng nó để kiểm soát và bắt cha mẹ phụ thuộc vào mình? Cô đã hành động theo chiều hướng đó khi chiếm lấy Gregor và căn phòng của anh, khăng khăng với gia đình rằng đó là nơi chốn của riêng mình cô. Vấn đề không chỉ nằm ở một mình Gregor: đây là một phần của thân phận con người.

Sự đảo ngược những giá trị trong “Hoá thân” phần nào làm ta nhớ đến hiện tượng tương tự trong “Cái hang”. Trong truyện đó, tâm huyết con vật đổ vào lý trí trở nên vô lý và dần huỷ hoại nó, còn trong “Hoá thân” Gregor bề ngoài thì đang hết mình vì công cuộc đỡ đần và nuôi gia đình, nhưng thật ra lại nắm giữ quyền lực bạo chúa chi phối bọn họ. Nhưng cả hai đều đi ngược lại với giáo điều Triết học Khai sáng. Thế giới tốt đẹp hơn, dịu dàng hơn mà kỷ Khai sáng hình dung ra khi lý trí lên ngôi đã không trở thành hiện thực, bởi lẽ Gregor đã dùng chính những giá trị tốt đẹp và tử tế đó để thoả mãn những thôi thúc làm chủ và đàn áp đã tồn tại từ lâu. Lòng tốt là vũ khí của anh, và anh đang giết gia đình mình chết dần chết mòn bằng chính thứ lòng tốt này.

Cũng tại đây, Kafka hồ như đã hiểu được điều mà các nhà triết học Khai sáng không thể hiểu được: kể cả khi việc sử dụng lý trí có dẫn đến một sự thay đổi rõ ràng về mặt đạo đức thì bản chất con người cũng không thể thay đổi nhanh chóng đến vậy: nó sẽ chỉ tìm cách thể hiện ra bằng những cách mới hơn thôi. Trong “Hoá thân”, lòng tốt trở thành công cụ chuyên chế. Bản chất xúc cảm của ta bám rễ quá sâu để có thể thay đổi một sớm một chiều được. Những con người và con vật của Kafka đã phá vỡ những giá trị Khai sáng kể cả khi tuân thủ những giá trị sống đó.

Bách khoa Toàn thư Triết học Stanford định nghĩa các nhà triết học Khai sáng là những người có niềm tin lớn lao vào khả năng tri thức của nhân loại và “thường đi đôi với thái độ ngờ vực hoặc thù ghét những hình thức hoặc chủ thể quyền lực khác (như truyền thống, mê tín, định kiến, huyền thoại, và phép màu).” Mê tín và huyền thoại quả thật không phù hợp với con người hiện đại, những người không nên tin vào những sinh vật huyền bí không ai kiểm chứng. Những kẻ chưa được “khai sáng” có thể để những thứ huyễn hoặc này đóng một phần trong cuộc sống của mình, gán cho chúng những phẩm chất vốn không có, nhưng con người lý trí chỉ tin vào những gì thấy tận mắt nghe tận tai. Nhưng có thật như vậy không? Đó là vấn đề mà Das Schloss (Lâu đài) phải vật lộn.

the castle
Bìa bản dịch tiếng Anh của Oxford University Press.
Trong Lâu đài, một nhân viên đạc điền tên K. đến một ngôi làng nhỏ nằm dưới bóng một toà lâu đài thấp thoáng trên đồi cao. Thật khó nhìn thấy được toà lâu đài ẩn sau sương mờ và bóng đêm. Rõ ràng anh đã được Lâu đài (thể chế, không phải toà nhà) thuê làm. Nhưng khi anh dừng chân ở một quán trong làng, câu hỏi phát sinh rằng liệu có thật là anh đã được thuê làm cho Lâu đài không, và chính xác là ai đã thuê anh. Gọi điện đến Lâu đài thì nhận được câu trả lời rằng không, không hề thuê anh, nhưng rất nhanh sau đó lại có một cuộc gọi khác với câu trả lời khác. Đây phải chăng chỉ đơn giản là một lỗi lầm đã nhanh chóng được sửa sai? Không, bởi vì sau đó vấn đề anh có được thuê hay không vẫn tiếp tục được dấy lên. Rất nhanh sau đó, tất cả những sự hoang mang này bắt đầu dẫn đến một câu hỏi quan trọng: ai là người lên tiếng cho Lâu đài? Chắc chắn đã có người thuê anh, nhưng liệu đó có đồng nghĩa với việc Lâu đài thuê anh không? Và điều này lại dẫn đến một điều hệ trọng hơn: cái thứ gọi là Lâu đài này là gì? Và ta có thể tìm thấy tiếng nói thẩm quyền của nó ở đâu?

Đầu tiểu thuyết, K. nghĩ rằng anh sẽ nắm bắt được chuyện gì đang xảy ra nếu đi lên Toà-nhà-Lâu-Đài. Nghe thì khá là khả quan: nếu bạn muốn biết Lâu đài đang giở trò gì, tại sao không chất vấn thẳng nó? (K. vẫn chưa hiểu ra rằng Lâu đài không bao giờ có thể là cùng một thứ với toà lâu đài.) Nhìn từ xa toà lâu đài khá nguy nga sang trọng, nhưng khi đến K. mới phát hiện nó hoá ra là một cụm nhà nhỏ chồng chất lên nhau, đổ nát đến không còn sửa chữa nổi. Không hề có một toà lâu đài nào cả. Việc không có một công trình lớn bao quát mà chỉ có những vật nho nhỏ này có nghĩa gì? Và có nghĩa như thế nào với thể chế Lâu đài?

Càng đọc sâu vào tiểu thuyết, điều này ngày càng đại diện cho ý tưởng mà K. sẽ phải vật lộn xuyên suốt cuốn tiểu thuyết. Các thể chế không tồn tại giống công trình xây dựng – nhìn thấy được và chạm vào được. Thể chế chỉ là những dàn xếp giữa con người với nhau, và nó chỉ tồn tại chừng nào những người liên quan còn tin vào sự tồn tại của nó, và điều này nghe chẳng khác gì một niềm mê tín.

Vậy thì Lâu đài ở đâu? Kỳ thực, K. đã được cho biết về vị trí của nó. Khi mới đến, anh được bảo rằng ngôi làng thuộc về Lâu đài, và vì thế tất cả người trong làng và cả những vị khách vãng lai đều nằm trong Lâu đài. Nó vừa hữu hình vừa bất khả kiến, hệt như một sinh vật huyền bí.

Thứ mà K. tìm kiếm không bao giờ có thể tồn tại theo ý anh. Và dù không ai có thể nhìn thấy hay chạm vào, mọi người vẫn luôn hành xử như thể nó có ý chí và tính cách riêng. Lâu đài khiến tất cả kinh khiếp và sự hiện diện của nó luôn bao trùm và thống trị ngôi làng. Khi K. nói với chủ quán rượu rằng anh thà sống tự do bằng cách tránh xa toà lâu đài, người chủ nói như báo trước rằng: “ngài không biết Lâu đài đấy thôi.” Điều này khiến nó nghe như một con người với đầy đủ các tính cách tự thân. Câu chuyện mà Amalia (em gái của Barnabas người đưa thư của Lâu đài) kể càng làm ta cảm thấy rằng Lâu đài là một cá nhân có phẩm giá và vì thế có thể cảm thấy bị xúc phạm và âm mưu trả thù. Amalia nhận được một lá thư từ một quan chức Lâu đài ra lệnh cho cô phải ngủ với hắn. Khi Amalia không tuân lệnh, cô bị trừng phạt không phải vì cô đã từ chối hắn mà vì cô đã xúc phạm đến Lâu đài. Những gì xảy ra tiếp đó là sự trả thù của Lâu đài, nhưng ai mới thật sự là người đang thực hiện hành vi trả thù? Như thế thì việc đi lên những ngôi nhà đổ nát túm tụm trên đồi cũng chẳng giải quyết được việc gì.

Phần lớn nội dung tiểu thuyết theo chân K. đi tìm tiếng nói thực có thẩm quyền của Lâu đài. Nhưng liệu thứ đó có tồn tại không? Làm sao mà một thể chế gồm bao nhiêu con người khác nhau như vậy có thể có một tiếng nói chung được? K. luôn luôn tìm kiếm ai đó để làm mắt xích đầu tiên, làm đòn bẩy bật anh lên những thứ bậc của Lâu đài để chạm đến tiếng nói thật sự của nó. Đầu tiểu thuyết, một chàng thanh niên tự giới thiệu mình là con của quan tổng quản lâu đài, và điều này tràn trề triển vọng. Nhưng những khởi đầu hứa hẹn nhiều thường chóng phai: quan tổng quản lâu đài có thể có quyền lực ngang ngửa một ông thống đốc hay thấp kém cỡ viên chức quèn, mặc dù điều này cũng chẳng còn ý nghĩa gì lắm vì K. sớm được cho hay rằng chàng trai chỉ đang khoa trương thôi; anh ta chỉ là con của phụ tá, và vấn đề với những người ở chức phụ tá chính là lúc nào cũng có hàng đống người như thế, và cứ bao nhiêu chức phụ tá thì có bấy nhiêu ý kiến khác nhau. Tiếng nói của Lâu đài lại một lần nữa đột nhiên cách xa nghìn trùng.

Tiếp theo, K. đến gặp lý trưởng. Điều anh muốn từ ông ta là một câu trả lời xuất phát từ phía lãnh đạo: “có” hay “không” việc anh đã được thuê. Anh không nhận được câu trả lời mình cần (mặc dù lý trưởng cũng có ý kiến riêng – một ý kiến tiêu cực) nhưng thay vào đó đã biết được điều có ích hơn. Khi K. phản đối rằng quan điểm của lý trưởng trái ngược với lời của vị quan chức Lâu đài đã thuê anh, ông đã chia sẻ một vài sự thật quan trọng về những thể chế kiểu như Lâu đài:

Tôi có thể giải thích để ông hiểu. Trong một cơ quan chức trách lớn như của ngài bá tước vẫn có thể xảy ra việc ban ngày chỉ thị cái này, ban nọ chỉ thị điều kia, các ban không biết chỉ thị của nhau, việc kiểm tra của cấp trên tuy hết sức kỹ càng, nhưng do bản chất của nó nên việc kiểm tra xảy ra rất muộn, rốt cuộc dẫu sao cũng có thể xảy ra lộn xộn nho nhỏ.

Việc nhắc đến nhân vật bá tước này tựa như đang chỉ ra một người thật có thể lên tiếng nói về Lâu đài, nhưng hoá ra cũng chỉ là ảo tưởng: vị bá tước này không bao giờ được tìm kiếm hay tìm thấy mà chỉ âm thầm biến mất khỏi thiên truyện. Về sau, Olga, một đồng minh, đã lần nữa khẳng định điều này mạnh mẽ hơn: “Trong ban ngành của mình thì ông ta có thể hiểu được hàng loạt điều chỉ từ một từ thôi, còn chuyện thuộc phòng ban khác thì dù được người ta giải thích hàng giờ liền, ông ta có lẽ sẽ lịch sự gật gù nhưng vẫn chẳng hiểu gì.” Nếu K. thật sự tâm niệm những lời này, anh sẽ phải kết luận rằng việc tìm kiếm tiếng nói thật của Lâu đài khó như mò kim đáy bể.

Lý trưởng tiếp tục nói rằng việc tất cả các phòng ban bộ phận có phát biểu trái ngược nhau không phải hoàn toàn xấu. Ngược lại, từ sự hỗn loạn này thi thoảng nảy sinh ra những lời giải vô cùng xuất sắc và dứt khoát cho các vấn đề. Tất nhiên, ông nói, anh chắc chắn sẽ không tìm ra câu trả lời cho kịp lúc cần dùng đến. Nhưng kể cả nếu có tìm được cách giải quyết dứt khoát, làm sao anh biết được rằng sẽ không có lời giải theo sau phủ định lại nó? Anh không biết được đâu.

Và bất chấp tất cả những dấu hiệu cho thấy không bao giờ có thể tìm thấy tiếng nói có thẩm quyền của Lâu đài, mọi người vẫn bị ám ảnh với những thái độ và tầm ảnh hưởng của nó, và vì thế tuyệt vọng cần tiếp cận được nó và những người có vẻ giữ vai trò quan trọng trong đó. Lạy Giời, Lâu đài luôn che giấu kỹ hoạt động nội bộ. Olga nói với K. rằng: “Ở đây có câu thành ngữ: ‘Những quyết định hành chính rụt rè như gái tơ’.”

Suốt chiều dài cuốn tiểu thuyết, một vài người xuất hiện và có vẻ có tiềm năng tiếp cận đến bộ não hay tiếng nói của lâu đài, và K. luôn nhiệt tình theo đuổi những người này. Anh đặc biệt muốn tìm đến những vị tai to mặt lớn của Lâu đài. Ứng cử viên hàng đầu cho vị trí lãnh đạo Lâu đài xuất hiện trong truyện là Herr Klamm.

Trong chương hai, người đưa thư Barnabas, anh trai của Olga, tìm đến K. với một lá thư từ Klamm gửi cho K. Có vẻ Klamm là trưởng ban X, một chức vụ mà vào lúc đấy chắc hẳn vô cùng ấn tượng và huyền bí – cho đến khi lý trưởng cho hay một số phòng ban làm chuyện này và một số khác làm chuyện kia. Lá thư của Klamm xác nhận rằng K. đã được thuê, và gã gửi K. đến chỗ lý trưởng để nhận chi tiết công việc. Nhưng khi gặp lý trưởng, K. (tất nhiên) lại một lần nữa bị nói rằng anh chưa bao giờ được thuê.

Klamm trở thành Chén Thánh muôn đời tìm kiếm của K., và anh dành rất nhiều thời gian cố gắng tìm gặp và trò chuyện với gã (mặc những lời cảnh báo của lý trưởng) bởi anh đinh ninh rằng Klamm có thể dẫn anh đi vào đúng con đường tìm kiếm tiếng nói thật sự của Lâu đài. Nhưng khoảng cách gần nhất giữa anh và Klamm chỉ xảy ra khi Olga dẫn anh đến một quán rượu mà Frieda, cô phục vụ ở đó, nói với anh rằng mình là nhân tình của Klamm. Cô để anh nhìn lén Klamm qua một cái lỗ nhỏ trên tường phòng gã. K. đợi bên ngoài quán rượu, hy vọng sẽ gặp được Klamm khi gã bước ra ngoài, nhưng bao giờ Klamm cũng tìm được cách tránh mặt anh.

K. càng cố gắng với tới cấp bậc cao hơn trong Lâu đài bao nhiêu thì lại càng tụt lại bấy nhiêu – tụt xuống đến tận những viên chức thấp nhất trong Lâu đài. Anh tràn trề hy vọng khi gặp Herr Momus, người tự giới thiệu là thư ký làng của Klamm. Nhưng đến đây rồi thì anh nên biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo: hoá ra Momus chỉ là một trong vô vàn thư ký của Klamm, và như thường lệ điều này lại làm giảm đi sự quan trọng của bất kì ai trong số đó.

Nỗ lực leo cấp của K. bắt đầu trượt dốc không phanh khi Olga kể cho anh nghe về những điều Barnabas nghi ngờ về Klamm: giờ đây anh không biết liệu người tự nhận là Klamm có đúng là Klamm không. Tin nhắn của Klamm gửi cho K. thông qua Barnabas là điều đầu tiên cho anh hy vọng về một phán xét rõ ràng và uy tín của Lâu đài, lẽ vì vậy sự nghi ngờ này mới thật sự làm lung lay ý chí anh. Nhưng Olga cũng ngờ vực Barnabas không kém: anh ta đi ra đi vào nhiều văn phòng, cô nói, nhưng liệu những phòng ban đó có phải là Lâu đài thật không? Những ngờ vực của riêng K. đối với vị trí của Barnabas trong Lâu đài lại tiếp tục xâu chuỗi thành những suy tưởng vô cùng điên cuồng và quay cuồng trượt giảm, bởi với mỗi cơ hội đều kéo theo những phủ định của chính nó, và K. đành phải chấp nhận những điều nhỏ hơn:

[Barnabas] được phép vào trong các văn phòng hoặc vào một phòng ngoài, nếu cô thích gọi như thế; được rồi, vậy thì đó là một phòng ngoài, nhưng có các cửa dẫn đi tiếp… Barnabas nói chuyện với ai ở đó, tôi không biết, có thể tay thư thủ nọ là người đầy tớ cấp thấp nhất, nhưng dù là cấp thấp nhất gã cũng có thể đưa cậu ấy tới cấp cao hơn và nếu không thì ít ra gã cũng có thể nêu tên người đó và nếu không thể nêu tên, gã vẫn có thể chỉ cho cậu ấy người nào có thể nêu tên được. Người được gọi là ngài Klamm có lẽ chẳng mảy may giống ngài Klamm thật… hắn có thể là kẻ thấp nhất trong các viên chức, có khi còn chưa là viên chức nữa cơ, nhưng hắn vẫn có nhiệm vụ nào đó ở cái bàn đứng, hắn đọc gì đấy trong quyển sách to tướng của hắn, hắn thì thầm gì đấy với tay thư thủ… và ngay cả nếu tất cả những điều này không có thật và hắn cũng như hoạt động của hắn hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì, thì vẫn có ai đấy đã đặt hắn đứng ở đó và với ý định nào đấy.

Công cuộc tìm kiếm của K. giờ đã hoàn toàn bị đảo lộn. Khi không thể với tới cấp lãnh đạo trên cùng của Lâu đài để tìm tiếng nói thật, anh chạy thục mạng tới những hàng ngũ thấp nhất, nơi mà cả những thành phần thấp kém nhất của Lâu đài cũng phải ít nhiều có liên quan gì đến mục đích cao cả của nó, và vì thế chắc hẳn phải soi sáng cho anh đôi chút về mục đích đó.

Tất cả những điều này lại làm ta nhớ về những nỗ lực điên cuồng của con vật trong việc giải nghĩa cái hang của nó trong “Cái hang”. Như con thú, K. tự vắt kiệt sức mình bằng việc không ngừng phân tích một câu hỏi không có lời giải hợp lý. K. và con vật cứ càng cố tìm lời giải lý tính bao nhiêu thì càng phải gấp đôi nỗ lực bấy nhiêu để tìm ra đáp án.

Sẽ là một sai lầm nếu nhìn nhận Lâu đài là một tác phẩm châm biếm về chủ nghĩa quan liêu. Chủ đề châm biếm đó đã được viết đi viết lại nhiều lần, nhưng những mối quan tâm của nó không hề giống với những vấn đề của Kafka. Trọng tâm của văn học châm biếm luôn là những chủ đề chống lại sự quan liêu bàn giấy quen thuộc: tính vô hiệu quả của nó, sự tầm thường, tự phụ, thiển cận, vô hồn và ngắc ngoải của nó, cùng với sự vô trách nhiệm của tâm lý làm việc theo giờ hành chính. Lâu đài lại nói về một chủ đề hoàn toàn khác: mâu thuẫn giữa cách chúng ta công nhận thể chế là một phần bình thường trong cuộc sống của mình với hiện thực rằng chúng là những điều vô cùng kỳ quái bắt buộc ta phải hành xử khác với tính chất thật của chúng. Ta tin chúng dù không thể nhìn thấy, nghe thấy, hay chạm vào. Ta gán vào đó nào là động cơ, cá tính, khát khao, và cả bản ngã đạo đức. Ta lẫn lộn những công trình vật chất với bản thể của chúng: toà lâu đài khác với Lâu đài. Nhưng kể cả câu hỏi đơn giản nhất cũng khiến ta gặp rắc rối: ai lên tiếng cho Lâu đài? Thể chế là những tập hợp con người, nhưng sự tồn tại của chúng không cần đến riêng một cá nhân nào cả. Chúng ta bắt buộc phải đối xử với chúng theo cách ta đối xử với một con người thực thụ, nhưng điều đó là một sự hư cấu đã gây cho K. và tất cả chúng ta những phiền toái bất tận.

Lâu đài của Kafka có thể giống một tác phẩm châm biếm thể chế, nhưng bất kỳ ai từng viết một lá thư giận dữ gửi đến một tổ chức lớn đều không sớm thì muộn nhận ra rằng mình không hề viết gửi cho một cá nhân cụ thể nào cả. Trong thế giới hiện đại, những lời hồi âm được lập trình sẵn trên máy tính càng minh chứng cho sự vô vọng này, nhưng cũng không thể làm gì để thay đổi cục diện. Gia đình của Amalia cố gắng cầu xin Lâu đài tha cho nàng tội báng bổ, nhưng nếu nàng được tha lỗi thì đó cũng không phải là nhờ Lâu đài mà là nhờ ơn ai đó ở đâu đó mà thôi.

Một thể chế khá giống một sinh vật huyền bí ta đồng tình tin tưởng vào. Các triết gia Khai sáng không đồng tình với việc tin vào huyền thoại, nhưng những sinh vật huyền bí không ai nghe thấy nhìn thấy mà các triết gia nghĩ đến đều không hề có sức ảnh hưởng thật đối với cuộc đời ta, trong khi Lâu đài của Kafka lại là một thế lực vô tiền khoáng hậu.

“Auf der Galerie” (“Trên khán đài”) là một truyện vô cùng ngắn, chỉ gói gọn trong một trang, nhưng lại là tác phẩm phác hoạ chính xác nhất thái độ điển hình của Kafka đối với sự tương phản gắt gao giữa viễn cảnh về thế giới Khai sáng tốt đẹp và bản chất cảm xúc tiền-Khai sáng vẫn tiếp tục đeo đuổi mỗi cá nhân. Câu chuyện chỉ bao gồm hai tình huống giả định về cùng một sự việc xảy ra trong rạp xiếc: trên vũ đài, viên quản rạp chỉ đạo một nữ kỵ sỹ cưỡi ngựa biểu diễn trước vô vàn khán giả dõi theo. Trong giả định đầu, nàng kỵ sỹ mong manh yếu ớt, tên quản rạp thì tàn nhẫn và bạo lực, không ngừng quất ngựa bắt nàng cưỡi mãi vòng quanh sân khấu, còn khán giả cũng không bao giờ thấy thoả mãn hay mảy may động lòng thương xót trước cảnh tượng bất nhân này. Trong giả định thứ hai, nàng kỵ sỹ xinh đẹp ngời ngời, viên quản rạp dịu dàng che chở, và khán giả lại vô cùng mê mẩn nàng.

Nhưng tình huống đầu tiên được xây dựng trên nền tảng điều kiện: nếu mọi chuyện không đổi, ta được biết, thì một chàng thanh niên dưới hàng ghế khán giả sẽ chạy lên vũ đài và la lớn: Dừng lại ngay! Nhưng, ta lại được biết thêm, sự việc đã không xảy ra theo giả định ban đầu. Thay vào đó, thực tế lại chính là tình huống thứ hai và “bởi lẽ đây là sự thật, nên chàng trai dưới khán đài đành gục đầu lên lan can khán đài, và, như thể chìm dần vào một giấc mộng buồn khi màn biểu diễn đi đến hồi kết thúc, chàng vô thức bật khóc.”

Ngạc nhiên thay, tình huống thứ hai chứ không phải tình huống thứ nhất mới gây đau khổ khôn nguôi. Viễn cảnh thứ hai miêu tả thế giới hoàn hảo của kỷ Khai sáng nơi mà ai ai cũng đều tốt bụng và quan tâm lẫn nhau. Không có chỗ cho người hùng, bởi lẽ thế giới đó đâu cần gì đến anh hùng. Chính xác hơn, nó không có chỗ dung thứ cho những vất vả đời thường quen thuộc với ta. Đó là một thế giới ngập tràn ánh sáng và sắc đẹp, và Kafka càng nhấn mạnh điều này bằng cách miêu tả nó cầu kỳ và chi tiết hơn hẳn viễn cảnh thứ nhất: người quản xiếc nhẹ nhàng nâng nữ kỵ sỹ đặt lên yên ngựa trắng; gã chạy bên ngựa và dõi theo từng chuyển động của nàng; gã nào dám lấy roi quất ngựa; gã không thể tin vào mắt mình trước tài nghệ điêu luyện của nàng; và gã bắt dàn nhạc im tiếng khi nàng chuẩn bị cho cú nhảy nhào lộn.

Nhưng vấn đề ở đây là thế giới này không có chỗ cho bi kịch, hay những hành động dũng cảm lên tiếng khẳng định đúng-sai. Không ai được yêu cầu làm gì ngoài việc ngồi yên chiêm ngưỡng vẻ đẹp của màn trình diễn. Nhưng con người bằng xương bằng thịt sẽ chịu ngồi yên tới bao giờ? Đây chính là tóm tắt định hướng của Kafka. Con người được sinh ra cho viễn cảnh thứ nhất chứ không phải viễn cảnh thứ hai. Chính sự không hoàn hảo của con người khiến cuộc đời này trở thành hiện thực – và đáng quý. Vị khán giả trong rạp xiếc cố gắng tưởng tượng ra cho mình một vai trò có nghĩa đối với chuyện đang xảy ra, nhưng lại cảm thấy bị ruồng bỏ bởi cảnh tượng đẹp đẽ không tì vết trên vũ đài. Chúng ta không được trang bị để sống cuộc đời chỉ gồm những tình huống lý tưởng như thế.

Các tác phẩm của Kafka ta bàn luận trong phần đầu của nghiên cứu này có thể chia làm hai dạng chính. Dạng thứ nhất, bao gồm “Cái hang” và Lâu đài, tập trung vào những phương diện của cuộc đời mà trong đó lý trí dù lợi hại đến mấy cũng chỉ là con dao hai lưỡi. Dạng thứ hai, “Hoá thân” và “Trên khán đài”, kể về việc thế giới trong mơ tốt đẹp và dịu dàng của các triết gia Khai sáng đã bị đảo lộn ra sao bằng sự tái thiết lập hệ giá trị xưa cũ. Câu chuyện nổi tiếng của Kafka mang tên “Das Urteil” (“Lời tuyên án”) là một ví dụ điển hình cho dạng thứ hai, và ta sẽ tiếp tục bàn luận về nó trong phần sau.

John M. Ellis

Alicia Oanh Le dịch

Bản gốc tại: https://www.newcriterion.com/issues/2018/10/how-to-read-kafka-part-i

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sun Mar 12, 2023 5:31 am

John M. Ellis, Đọc Kafka như thế nào: Phần II

Zét Nguyễn và Ally Le

(Bài viết thuộc Zzz Review số 6, 31-7-2019)

Phần thứ hai trong xê ri hai phần về nhà văn đã làm thay đổi quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa duy lý hiện đại. Đọc phần trước ở đây.

Trong phần I của tiểu luận này, tôi đã lập luận rằng đa số các tác phẩm của Kafka rơi vào hai địa hạt chính. Trong trường hợp đầu tiên, việc quá tin vào lý tính thường dẫn đến những tổn thất nặng nề khi lâm vào những hoàn cảnh trong đời sống mà lý tính không thể kiểm soát được. Trong trường hợp thứ hai, các nhân vật trong truyện đã lạm dụng và phá bỏ đi những dạng hành xử trên tinh thần triết học Khai sáng dù vẫn sống theo những nguyên tắc đó. Không có tác phẩm nào minh chứng rõ ràng cho trường hợp thứ hai hơn là truyện ngắn nổi tiếng “Das Urteil” ( “Lời tuyên án”) của Kafka, một câu chuyện kể về cái cách mà con người ta dùng lòng tốt theo kiểu văn minh và những cử chỉ trách nhiệm đầy mình để phục vụ cho sự xấu xa hiểm ác vẫn luôn đeo đẳng nhân tính.

Thế giới trong truyện “Lời tuyên án” gồm có ba nhân vật – Georg, cha anh, và một người bạn sinh sống ở Nga – nhưng người đọc chỉ quan sát mọi chuyện từ góc độ suy nghĩ của Georg. Câu chuyện được kể dưới hình thức những biện luận lý tính ám ảnh quen thuộc của Kafka, và trong đó, Georg liên tục tập dợt những lời biện minh cho hành động của mình. Anh mở đầu câu chuyện bằng một màn độc thoại dài lê thê về người bạn của mình. Georg hết sức lo lắng cho bạn: người bạn tội nghiệp ấy có vẻ là một trường hợp thất bại thảm hại trong cả công việc kinh doanh lẫn trong đời sống tình cảm. Thoạt tiên ta hoàn toàn có thể thấy những suy nghĩ này là những băn khoăn trăn trở của một người mong muốn tìm cách giúp đỡ bạn mình, nhưng chẳng mấy chốc ta phát hiện ra những biểu hiện vô cùng đáng quan ngại cho thấy một điều gì đó hoàn toàn khác đang xảy ra.

Georg dường như không chỉ suy nghĩ và buồn bã thay cho số phận bạn mình ở Nga – anh vui sướng đắm mình trong đó. Anh suy nghĩ nên viết thư cho bạn thế nào:

Anh có thể viết gì cho một con người rõ ràng là đang thất bại trong cuộc sống ấy, người mà anh chỉ có thể bày tỏ lòng thương cảm mà không giúp được gì? Chẳng lẽ anh khuyên anh ta quay về nhà, về đây để nối lại các quan hệ tình bạn cũ – điều mà không có gì gây cản trở cả – và mọi thứ hãy giao phó cho sự giúp đỡ của bạn bè? Nhưng điều đó chỉ có nghĩa là ngụ ý nói cho anh ta biết – mà càng nói bóng gió thì càng làm nhục anh ta – rằng mọi nỗ lực của anh ta cho đến nay đã không đem lại kết quả.[1]

Ngay từ đây ta đã thấy Georg rất lấy làm vui sướng trên sự bất hạnh của bạn mình, và cảm tưởng này chỉ ngày càng trở nên rõ rệt hơn. Georg mường tượng ra cảnh bạn mình trở về nhà và phản ứng của mọi người trước sự trở về của anh: Georg nghĩ, người bạn ấy sẽ phải chuẩn bị tinh thần bị mọi người soi mói, và anh sẽ phải chấp nhận sự thật rằng so với tất cả những người bạn thành công và thực tế hơn, mình không là gì ngoài một đứa trẻ non dại. Từ chỗ cam đoan rằng chẳng có gì ngăn cản bạn mình trở về nhà, ngay trong câu kế tiếp, Georg đã nói thẳng ra những điều sẽ xảy ra một khi người ấy trở về: bị bạn bè coi thường và thương hại. Thứ ban đầu là một màn kịch thương cảm thật lòng cho một người bạn lầm lạc đã trở thành một cuộc trác táng của những cảm xúc tự mãn và hân hoan hiểm ác. Georg đã biến đồng cảm thành vũ khí: anh dùng ngôn ngữ của lòng tốt để thực hiện mưu đồ huỷ diệt.

Tại sao anh lại làm như thế? Tương tự như việc một phần thông điệp của truyện “Cái hang” nằm ở sự tương phản ngầm của nó với câu chuyện dân gian “Ba chú lợn con”, “Lời tuyên án” cũng có liên quan mật thiết với một câu chuyện khác mang sự tương phản nhiều ý nghĩa: dụ ngôn đứa con hoang đàng. Việc Georg cứ nhai đi nhai lại về màn tiếp đón mà người bạn sẽ nhận được nếu trở về nhà làm ta không khỏi nghĩ đến lòng căm hận tức tối của người con trai ở nhà đối với sự tiếp đón nồng hậu dành cho người con trai đã dám rời bỏ tổ ấm an toàn. Georg là người con trai thiếu dũng khí tự mình bứt phá, và rõ ràng anh sợ những đánh giá bất lợi cho bản thân khi hai người bị đem ra so sánh. Và lẽ vì vậy anh không ngừng tự huyễn rằng mọi chuyện đã trở nên tồi tệ ra sao với bạn mình, và sự trở về của người ấy sẽ bẽ bàng đến mức nào.

Georg tiếp tục đóng vai đạo đức giả khi kể với vị hôn thê của mình rằng anh phải cố tình giấu tin họ đính ước và hạnh phúc bên nhau nhằm tránh làm tổn thương cảm xúc của người bạn. Tuy nhiên, sự khó chịu của cô gái trước quyết định này lại dễ dàng thuyết phục anh kể tất tần tật ra. Giờ đây Georg có thể làm mọi thứ mình muốn dưới cái lốt quan tâm đến người yêu, và anh liền viết một lá thư gửi đến bạn để xát càng nhiều muối vào những vết thương tưởng tượng của bạn càng tốt. Trong thư, anh không quên đề cập đến việc cô vợ sắp cưới của mình xuất thân từ một gia đình hết sức giàu có và rằng người bạn có thể trở thành bạn tốt với cô nàng, “điều này hoàn toàn không phải là không quan trọng đối với một chàng trai chưa vợ.” Ở đây anh ngầm nói rằng bạn mình chắc chắn là một kẻ không thể hoà nhập được với xã hội và vì thế không thể tự mình có những mối quan hệ có ý nghĩa. Lá thư của Georg ngập tràn giọng điệu thù hằn, hạ cố, và ganh đua dưới vỏ bọc lòng tốt. Mặt tối trong bản chất con người không bị khuất phục – nó chỉ đơn thuần được trao cho thêm nhiều cách mới hơn để bộc lộ ra bên ngoài. Nếu anh muốn hạ gục đối thủ, giờ đây anh phải hành xử thật cao thượng. Và nếu có chứng cứ ngoại phạm thì càng tốt: khi Georg muốn mở lời kể về việc anh đã đính hôn với một tiểu thư nhà giàu, anh chỉ cần nhắc đến việc hôn ước của một người khác liên tục cho đến khi người bạn cắn câu đề tài hôn ước, rồi bước tiếp theo trở nên vô cùng đơn giản. Nhưng tất cả những chuyện này chỉ khẳng định một thực tế ngầm rằng những lựa chọn sống táo bạo và mạo hiểm hơn của người bạn đã khiến Georg cảm thấy yếu kém và ghen ăn tức ở, và vì thế Georg muốn tiêu diệt người bạn này.

Nhưng giờ một nhân vật khác lại xuất hiện trong truyện: cha của Georg. Georg đến gặp cha mình và bắt đầu dợt đi dợt lại lần nữa những giả thuyết đậm mùi ám ảnh của mình về người bạn. Cha anh đáp lại chỉ bằng một lời vặn đơn giản: “Có phải quả thật con có bạn [như vậy] ở Petersburg không?” Sự đơn giản của câu hỏi này làm mọi thứ thật mập mờ: cha anh hoặc là đang đặt nghi vấn về sự tồn tại của người bạn này, hoặc đang hỏi xem liệu người này có thật sự là bạn của Georg hay không. Nhưng Georg đã kịp nắm bắt được một hàm ý còn quan trọng hơn: cha anh đang đặt một dấu hỏi to lớn đối với toàn bộ những gì anh đã dựng lên về tình trạng của người bạn. Cha anh đã biến thành một mối đe doạ đối với thế giới nội tâm công phu mà Georg đã dày công dàn dựng để chống chọi lại với cảm giác yếu kém của bản thân.

Hệ quả là một cuộc đấu khẩu xảy ra giữa hai người họ. Phía Georg tấn công bằng cách tỏ vẻ quan tâm và lo lắng cho cha, nhưng đến giờ ta đã có thể dễ dàng nhận ra những việc đó chỉ nhằm mục đích tước vũ khí đối thủ bằng thái độ bề trên. Mặt khác, cha anh chỉ dùng những lời khẳng định sự thật vô cùng đơn giản, trực tiếp và trúng đích. Không bên nào tỏ vẻ thật hung hăng, nhưng cuộc đấu khẩu lại dẫn đến một kết thúc bi thảm.

Đòn phản công của Georg khá giống cách anh đương đầu với hiểm nguy anh nhìn thấy ở người bạn: “Thôi đừng nói đến bạn bè của con nữa. Một nghìn người bạn không bằng bố con. Bố có biết con nghĩ gì không? Rằng [bố không tự chăm sóc bản thân mình đủ]. Thế nhưng tuổi bố đáng được hưởng sự an nhàn. Bố biết rõ là bố rất cần cho con ở cửa hàng, nhưng nếu cửa hàng đe dọa sức khỏe của bố thì con có thể đóng cửa nó vĩnh viễn ngay từ ngày mai. Như thế này thì không thể được. Bố cần có một lối sống khác, phải thay đổi hoàn toàn… còn bây giờ bố hãy lên giường một chút, dứt khoát bố cần phải nghỉ ngơi.”

Những lời này thốt ra như thể nỗi lòng người con hết mình vì cha, nhưng mục đích chính lại là để khống chế hiểm hoạ đến từ việc cha anh nhìn thấu sự ganh đua đến mức tự hoại của anh. Để đấu lại những phát biểu dài dòng ám ảnh của Georg, cha anh một lần nữa phủ đầu Georg, đánh vào chính nền tảng cõi thực tế ảo kia bằng những lời hết sức ngắn gọn nhưng có sức công phá vô cùng lớn: “Con không có bạn nào ở Petersburg cả.”

Cú phản đòn chớp nhoáng này khiến Georg một lần nữa cố gắng vớt vát lại hiện thực giả mạo mà anh đã tạo nên bằng cách kể lể chi tiết mối quan hệ trước đây của cha anh với người bạn ở Petersburg này. Anh kể, cha anh chưa bao giờ thích người bạn đó; Georg đã tự hào biết bao khi cha anh vẫn cố gắng hành xử hoà nhã với bạn mình. Trong lúc nói, Georg liền tay cởi quần áo cho cha để chuẩn bị lên giường ngủ. Georg đã khống chế mối đe doạ đến từ người bạn dám nghĩ dám làm bằng cách mường tượng ra người ấy trong vai trò kẻ thua cuộc, và giờ đây anh khống chế thêm mối hiểm nguy đến từ cha mình bằng cách biến ông thành một đứa trẻ.

Cuộc đấu trí vẫn tiếp diễn. Cha anh hỏi hai lần: “Ta đắp chăn đã kín chưa?” Georg trả lời, “Bố cứ yên tâm, kín cả rồi.” Ta cũng không thể hiểu cuộc trò chuyện này theo nghĩa bề mặt. Khi dịch từ cách nói của một “người con hiếu thảo” sang ngôn ngữ của cuộc đấu khẩu sát sao đang diễn ra, ý nghĩa của nó hoàn toàn thay đổi. Cha anh trêu ngươi: “Vậy anh nghĩ anh trùm kín được ta hả?” và câu trả lời của Georg như một niềm ao ước thầm kín: “Bố cứ yên tâm, trùm kín cả rồi.” Lẽ vì vậy, khi cha anh đột nhiên la lên “Không,” rồi giở tung chăn đứng thẳng dậy, đó là cách ông phản kháng lại hàm ý của cuộc đối thoại.

Đến nước này rồi thì Georg đành lập tức rũ bỏ hết lớp kén bảo vệ bằng lời mà anh đã dựng lên để che thân và bắt đầu nói ngắn gọn lại và thực tế hơn. Anh hiểu ra rằng nỗ lực đối đầu với sự đe doạ đến từ cha mình bằng cách đối xử với ông như thể một lão già bất lực đã thất bại, và anh bắt đầu thừa nhận với mình những chuyện thực sự xảy ra: “Cách đây ít lâu anh đã bắt đầu quyết định là sẽ cố gắng chú ý quan sát tất cả mọi việc để không bị bất ngờ.” Anh biết rất rõ ngôi nhà xây bằng những lá bài mà anh dựng lên từ đầu đã vô cùng mong manh yếu ớt, và rằng cha anh rồi sẽ trở thành mối hiểm nguy đe dọa nó. Nhưng anh có một ảo tưởng cuối cùng: rằng cha anh sẽ giải quyết vấn đề khó khăn của anh bằng cách tự mình giải thể: “Bây giờ ông ấy sẽ đổ nghiêng… cầu cho ông ấy ngã tan xương ra!”

Cha anh bắt đầu đưa ra lời phán quyết: “Mi đã phải do dự biết bao nhiêu trước khi trở thành con người chín chắn! Mẹ mi đã phải chết mà không được hưởng ngày vui.” Lời hồi đáp của Georg không còn né tránh và chứa đựng sự hung hăng ngầm, mà thay vào đó vô cùng đơn giản và trực tiếp: “Như vậy là bố đã theo dõi con.” Giờ đây anh đã hiểu, cha anh luôn biết rõ anh làm gì.

Lời phán quyết tiếp tục:

Như vậy giờ đây mi biết là ngoài mi ra còn có cái gì, cho đến giờ mi chỉ biết có một mình mi! Sự thực mi chỉ là một thằng bé con vô tội, nhưng một sự thực lớn hơn nữa là mi là một kẻ độc ác! Cho nên mi hãy nghe đây: bây giờ ta kết án mi tội chết đuối!

Georg đành lòng chấp nhận sự công chính của lời phán quyết và lao đi thực hiện nó bằng cách nhảy cầu. Việc anh cảm thấy bắt buộc phải hoàn thành lời phán quyết có ý nghĩa gì? Việc này liên quan đến một thứ còn cao hơn cả lý tính. Sự kết tội của người cha có sức mạnh vô biên – đó là một án tử về mặt xúc cảm. Khi anh nhảy xuống, câu chuyện kết thúc như sau: “đúng lúc đó trên cầu quang cảnh đi lại thật là nhộn nhịp.”

Câu kết này có ý nghĩa gì với toàn bộ câu chuyện? Một thế giới tràn ngập sự kiện vẫn đang diễn ra bên ngoài phạm vi ý thức của Georg, một thế giới trong đó con người và sự vật đã hoàn toàn bị chia cắt với Georg bởi anh mãi chui rúc trong thế giới nội tâm với những suy tưởng ám ảnh và tự phụ của chính mình.

đọc kafka - hình 1
Bìa bản dịch tiếng Anh của Oxford University Press.

“Ein Hungerkünstler” (“Nghệ sĩ tuyệt thực”) cũng lại là một câu chuyện kể về sự thất bại của lý tính. Truyện kể về một người đàn ông biến việc tuyệt thực trở thành một hình thức nghệ thuật. Anh giam mình trong một chiếc chuồng nhỏ có chấn song, ban ngày đem ra trưng cho công chúng cùng thấy, tối đến thì có người canh gác chuyên nghiệp trông coi. Đây là cách mà người nghệ sĩ tuyệt thực hy vọng có thể tạo ra mục tiêu và ý nghĩa cho cuộc đời mình, để mang lại cho nó phẩm cách và chân giá trị. Mỗi người có một cách tạo ra trọng tâm và ý nghĩa sống khác nhau, nhưng chung quy lại mục tiêu ai cũng như ai. Hoạ sĩ và các nhà nghiên cứu ung thư tìm cách biến cuộc đời mình trở nên ý nghĩa bằng những thành quả họ để lại cho hậu thế. Có lẽ cách phổ biến nhất để đạt được cảm giác mình đã dùng cuộc đời này làm điều gì đó đúng đắn để lại cho mai sau chính là nuôi dạy con cái. Nhưng trong câu chuyện này, Kafka đã chọn một cách để tạo ra ý nghĩa sống mà hiếm ai từng nhìn nhận như vậy: tuyệt thực. Ông đã chọn một phiên bản khá là vô nghĩa của ý tưởng này bởi vì ông có những suy tưởng riêng đối với bản thân ý tưởng đó.

Lẽ dĩ nhiên, tuyệt thực đôi khi được sử dụng nhằm phục vụ mục đích chính trị và tôn giáo, nhưng nghệ sĩ tuyệt thực của Kafka sẽ xem đó là sự sỉ nhục đối với nghệ thuật của mình. Anh tuyệt thực vị tuyệt thực. Kafka đã gán cho nhân vật của mình cách nói năng và suy nghĩ mà ta thường thấy ở những người đắm đuối với việc đạt mục tiêu cao cả trong đời thực: các nhà leo núi, vận động viên bơi vượt eo biển Manche, nghệ sĩ, vận động viên chạy đường dài, vân vân. Anh nói bằng ngôn ngữ của tất cả những người đấy: anh trở tức giận nếu có ai thách thức sự chân chính trong hành động của mình, và anh khinh khỉnh chối bỏ những ý muốn thương mại hóa bộ môn nghệ thuật này cũng như mọi ý kiến cho rằng nó chỉ là một trào lưu nhất thời. Anh nói năng trong ánh sáng của mục tiêu cao cả soi rọi từ bên trong, và tin rằng mình có thể tạo ra một kỷ lục thế giới về tuyệt thực khiến ai ai cũng phải trầm trồ.

Điều quan trọng nhất đối với anh chính là tính liêm chính nghệ sĩ của mình, và vì thế anh tức giận khi những người canh gác chuyên nghiệp có nhiệm vụ canh không cho anh giả vờ tuyệt thực bằng cách lén ăn đã không làm việc nghiêm túc. Đôi khi họ mải chơi bài mà xao nhãng đi nhiệm vụ đảm bảo rằng anh đã thật sự tuyệt thực.

Thoạt nhìn có vẻ như Kafka đang chế giễu người nghệ sĩ tuyệt thực bằng cách khoác lên anh tất cả những màu mè trang trí của những người đạt thành tích trong đời thật. Nhưng điều đấy lại hoàn toàn đối nghịch với chủ định của Kafka: ông dùng hình mẫu người nghệ sĩ tuyệt thực để phóng chiếu và soi xét tất cả những hành vi tìm kiếm mục tiêu và ý nghĩa sống đã trở thành ám ảnh. Chúng ta đều quá quen thuộc với câu trả lời ngõ cụt của các nhà leo núi khi được hỏi về động lực: “bởi vì có núi thì ta leo thôi.” Trong trường hợp này các nhà leo núi thực ra lại thành thật đến lạ. Nhưng câu chuyện của Kafka đã trình bày vấn đề một cách khái quát hơn: “Cứ thử cố giải thích cái nghệ thuật tuyệt thực với ai đó xem,” người kể chuyện của Kafka nói, “nếu ai đó không cảm được nó thì anh cũng không làm cho họ hiểu được đâu.”[2] Đây thực ra lại là một câu trả lời hay hơn câu “bởi vì có núi” của các nhà leo núi, bởi nó có thể áp dụng được cho mọi tham vọng ám ảnh của nhân loại.

Nhưng liệu chăng nghệ sĩ tuyệt thực chỉ là một hình ảnh châm biếm cho tham vọng trở nên xuất chúng? Nếu thế, ta phải dễ dàng chỉ ra những điều khiến anh khác với những kẻ cuồng thành tích khác. Mà điều ấy lại thật khó. Có phải đấy là do tất cả những gì anh làm đều vô nghĩa không? Có lẽ cũng chẳng vô nghĩa hơn cái người gần đây đã leo bề mặt dốc đứng của núi El Capitan ở Thung lũng Yosemite mà không dùng dụng cụ leo núi. Có phải vì anh ta chỉ là một kẻ ái kỷ chăm chăm thu hút sự chú ý? Nhưng điều đấy cũng thật phổ biến. Có phải vì anh mạo hiểm chính sức khoẻ của mình không cần thiết? Năm 1967 Donald Campbell đã thiệt mạng khi cố gắng phá vỡ kỷ lục tốc độ chạy trên mặt nước: đó là một hành động lao vào nguy hiểm không cần thiết – chỉ quan trọng đối với những người quan tâm đến kỷ lục tốc độ chạy trên mặt nước.

Triết học Khai sáng muốn mọi thứ trong đời người đều phải được lý tính soi rọi kĩ càng. Nhưng điều câu chuyện của Kafka nói lên là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của đời người – nỗ lực tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống – lại không thể áp dụng lý tính được. Người ta đi vào đó với niềm tin và tâm huyết, kể cả ám ảnh, nhưng hoàn toàn không có lý trí. Giúp đỡ người khác hẳn là một lựa chọn lý tính, và chắc chắn mang lại thoả mãn xúc cảm lớn lao, nhưng nó chỉ chuyển trọng tâm câu hỏi về ý nghĩa nhân sinh từ người này sang người khác: cuộc đời những người được giúp đỡ nhất định cũng phải có ý nghĩa gì đó. Và nếu không, vậy thì người thực hiện hành vi giúp đỡ đã đạt được điều gì?

Ở cuối truyện, người nghệ sĩ tuyệt thực đã làm tăng thêm một tầng ý nghĩa nữa cho nỗi hoài nghi trong câu chuyện đối với nỗi ám ảnh và những thành tích lớn. Anh tự thú nhận rằng anh chẳng thích ăn gì cả. Anh sống mòn mỏi rồi chết đi, nhưng ngay cả trước khi chết anh cũng đã bị người đời quên lãng. Anh không để lại gì cho hậu thế cả. Cuối truyện, người ta dọn sạch chuồng anh và đem anh đi chôn. Thế chỗ anh là một con báo trẻ trung đẹp đẽ, biểu trưng cho sức sống sung mãn. Con vật mang sự tự do ngay trong mình nó và niềm vui sống phả ra từ quai hàm. Vì sao lại kết thúc câu chuyện bằng hình ảnh này? Ý nghĩa ở đây chắc hẳn là chỉ có con người mới xoắn xuýt lên cố gắng tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời mình; con báo là một con vật tuyệt mĩ huy hoàng sung sức bởi nó không phải lo những điều đó. Và tất nhiên, nó khác một trời một vực với nghệ sĩ tuyệt thực, bởi nó mượt mà và được nuôi dưỡng đầy đủ. Tham vọng ám ảnh đã vắt kiệt sức sống của kẻ nhịn ăn, nhưng sinh vật miễn nhiễm với cái lo âu cụ thể này của con người thì lại tràn trề sinh lực và đẹp đẽ.

đọc kafka - hình 2
Bìa bản dịch tiếng Anh của Oxford University Press.
Tiểu thuyết Der Prozess (Vụ án) kể câu chuyện của một người mang tên Josef K. bị triệu tập đến toà án nhưng không bao giờ biết được mình bị cáo buộc tội danh gì. Đây là tác phẩm đặc trưng nhất của tính từ “Kafkaesque”, có lẽ bởi cảm giác hỗn loạn trong một quy trình không bao giờ hiểu rõ được. Một lần nữa, những hạn chế của lý tính lại đóng một vai trò quan trọng: ta kỳ vọng rằng luật pháp là một cấu trúc mang lý tính cao, nhưng trong Vụ án, luật pháp lại không hề như thế. Thứ đáng lẽ phải là một cấu trúc vô cùng lý tính lại liên tục bị xói mòn bởi những hành động can thiệp hời hợt do bản tính bừa bộn của con người.

Đa số người đọc thường rút ra kết luận rằng Vụ án kể về một âm mưu đen tối nhằm chống lại K.: một cá nhân đen đủi bị những thế lực anh không tài nào hiểu nổi hành lên vật xuống. Nhưng nếu soi thật kĩ những gì xảy ra trong tác phẩm, ta sẽ nhận ra đó không phải là trọng tâm của câu chuyện. Hai người đến áp giải anh đi không hề biết vì sao mình lại làm công việc đó, và họ chỉ chăm chăm vào bữa sáng của K. và ăn lấy ăn để. K. hành xử như mọi người bình thường biết điều: “Đây là giấy chứng minh của tôi,” anh nói, “bây giờ xin được xem giấy tờ của các ông, nhất là lệnh bắt tôi.”[3] Hai người đó gạt phăng cách tiếp cận vấn đề nghiêm túc của anh: “Chúng liên quan gì đến bọn tôi chứ? . . . Ông định làm cho vụ án trọng đại khốn kiếp của ông kết thúc sớm bằng cách tranh luận với chúng tôi, những kẻ canh giữ ông, về giấy tờ và lệnh bắt ư? Chúng tôi là những nhân viên tầm thường, hầu như không tỏ tường gì về giấy tờ tùy thân và trong vụ của ông chẳng làm gì khác hơn là canh giữ ông mỗi người mười tiếng rồi được trả công.”

Không hề có một dấu hiệu nào cho thấy có bàn tay của một thế lực thống nhất và thù địch nào ở đây, dù một vấn đề hết sức thực tế đã nảy sinh: K. sẽ vô cùng vất vả mới vượt qua được những đội hình dày đặc bao gồm những con người bình thường, thiếu thông tin và thờ ơ ngăn giữa anh và hệ thống pháp luật bề ngoài tưởng chừng lý tính. Luật pháp hoạt động dựa trên một chuỗi những khái niệm trừu tượng và quy trình hoành tráng: trát toà, quyết định toà án, chứng cứ, và cuối cùng là công lý. Nhưng chắn giữa K. và luật pháp có quá nhiều cá nhân chỉ chăm chăm lo những vấn đề thường nhật trước mắt, như ăn sáng hay kiếm sống. Sự tráng lệ của luật pháp dường như không thể làm bọn họ ấn tượng nổi, nhưng chính họ lại đóng một vai trò lớn trong việc thực thi pháp luật. Họ có thể lơ là, đói bụng, mệt mỏi, hoặc chán chường, nhưng không bao giờ có thể trở thành hiện thân của những khái niệm nhân tạo trong luật pháp.

K. để ý thấy một, rồi hai, và cuối cùng là ba người sống ở căn nhà đối diện nhà anh đang ngó từ cửa sổ của họ sang để hóng hớt chuyện gì xảy ra. Họ đánh lạc hướng K., cũng như chính bản thân họ đang bị đánh lạc hướng bởi sự có mặt của hai chấp hành viên. Họ có tạo thêm giá trị gì cho câu chuyện của Kafka không? Họ chỉ đơn thuần là những người tò mò về những sự việc khác lạ. Họ không màng đến việc đang xảy ra là công lý hay bất công; thực tế là họ chẳng giữ thái độ gì trước việc đó cả. Khi nhắc đến các quy trình pháp luật, người đọc kỳ vọng sẽ được đọc về những phân biệt rạch ròi cẩn thận và những lời giải thích chính xác. Thay vào đó, ta chỉ nhận lại một đống bùi nhùi tầm thường: những kẻ hóng hớt chán chường với cuộc sống của chính mình và những chấp hành viên chỉ làm cho xong chuyện. Tất cả bọn họ đều không biết chuyện gì đang xảy ra hay vì sao lại như thế, và điều này khởi đầu cho một khuôn mẫu lặp đi lặp lại suốt truyện.

K. nhận được tin triệu tập ở toà án vào ngày Chủ nhật tiếp theo đó, nhưng lại không được cho biết thời giờ. Anh được người ta đưa cho địa chỉ, nhưng lại không được nói cho biết là phòng nào trong toà nhà đó. Toà án thường toạ lạc trong những công trình chỉ phục vụ riêng mục đích xét xử, và thường trông vô cùng bề thế và hoành tráng. Chúng được thiết kế để tạo nên sự tôn trọng và tôn vinh sự huy hoàng của luật pháp. Nhưng nơi mà K. được chỉ đến lại là một khu chung cư và không hề có một dấu chỉ nào cho biết vị trí của toà án bên trong khu nhà này cả. Anh gõ cửa từng căn hộ một để tìm toà án, và cuối cùng khi anh gõ cửa một nhà trên tầng năm, một người phụ nữ trẻ mở cửa và chỉ sang một cánh cửa ngay cạnh đã mở sẵn. Thay vì được phân cách với đời sống hằng ngày bởi một công trình nguy nga nhấn mạnh vào sự độc nhất vô nhị của nó, toà án lại nằm lẩn khuất trong những căn nhà thường dân. Căn phòng xét xử còn chẳng hề trông giống phòng xử án chút nào. Một nhóm người lộn xộn đủ mọi thành phần xã hội hợp lại thành phông nền cho phiên xử K., và điều ấy hoàn toàn làm giảm mất tính nghiêm túc của luật pháp. Trong một góc phòng, một vụ quan hệ tình dục đột nhiên diễn ra thu hút đám đông hiếu kỳ. Công lý được đặt trong bối cảnh thường nhật, và cũng xô bồ lộn xộn hệt như thế.

Một thương nhân mà K. gặp trong công cuộc tìm kiếm của mình đã nói với anh những lời thẳng thắn tới mức tàn bạo về những chuyện sẽ xảy ra khi anh đi tìm công lý: “Ông nên nhớ rằng trong những chuyện kiện tụng này không ngừng có nhiều điều được đề cập mà lý trí không hiểu nổi; người ta quá mệt mỏi và đãng trí vì nhiều lý do, thế là người ta trốn chạy vào sự mê tín.” Điều tồi tệ hơn nữa là chính những người làm việc trong toà án đó dường như cũng bị điều này làm tổn hại; họ đã quá quen với không khí ẩm thấp mốc meo trong văn phòng đến nỗi không khí trong lành thổi vào từ phía cầu thang làm họ khó ở.

Tựa đề tiếng Đức của tiểu thuyết của Kafka, Der Prozess, thường được dịch sang tiếng Anh là The Trial (vụ án, vụ xét xử), nhưng nó cũng có nghĩa rộng hơn là “quy trình”, và đó hẳn là một cách ta nên áp dụng để hiểu về thêm về tác phẩm. Quyển sách cho ta biết về một quy trình vô cùng dài dòng, nhưng không bao giờ có một cuộc phán xử đích thực. Trong suốt quy trình này, ta nhận diện được chủ đề quen thuộc của Kafka về một hệ thống lý tính cao bị ăn mòn và biến dạng hoàn toàn dưới bàn tay vận hành của những kẻ hết sức dễ dàng bị xao nhãng và có xu hướng bỏ quên vấn đề chính.

Kafka dường như không phải xuất sắc nhất hay đặc trưng nhất trong Vụ án. Đó là bởi vì cách tiếp cận vấn đề lý tính và cẩn trọng của ông trong “Cái hang”, cũng như cách ông bàn luận về lý tưởng nhân sinh trong “Nghệ sĩ tuyệt thực” quá chấn động và độc đáo, nhưng trong Vụ án, những suy tưởng của ông lại tương đối quen thuộc. Sự can thiệp của các yếu tố con người vào những khái niệm trừu tượng của luật pháp đã là một ý tưởng hết sức bình thường – và càng quen thuộc hơn với những người nghiên cứu cách bồi thẩm đoàn quyết định từng trường hợp cáo buộc chẳng hạn. Nhưng có lẽ vấn đề trọng tâm của quyển sách chính là việc K. không bao giờ biết được mình bị cáo buộc tội gì, và “vì không được biết rõ cáo trạng và thậm chí có thể còn những cáo buộc khác nữa, ta phải nhớ lại toàn bộ cuộc đời, tới những hành động và sự việc nhỏ nhặt nhất, trình bày rõ ràng và phải được thẩm tra từ mọi khía cạnh.” Những gì Kafka nói ở đây hết sức chính xác và đau đớn. Trở thành đối tượng của một quy trình mà không có một cáo buộc rõ ràng là một điều vô cùng đáng sợ. Nhưng chuyện này lại hết sức quen thuộc với bất kì ai am hiểu về lịch sử luật pháp của thế giới Anh ngữ. Bởi đây chính là modus operandi – phương thức hành động của tòa hình án “Star Chamber” tai tiếng hồi thế kỷ 17 ở Anh Quốc, và các nhà phê bình của nó cũng có chung quan điểm với Kafka khi lý giải nguyên nhân biến nó trở nên độc ác vô chừng.

đọc kafka hình 3
Bìa bản dịch tiếng Anh cuốn Nước Mỹ của Oxford University Press.

“In der Strafkolonie” (“Khu trừng giới”) là một câu chuyện mà những giá trị của phong trào Khai sáng dường như lại bị lật ngược, nhưng việc này xảy ra có phần khác với những gì mà chúng ta đã thấy cho tới thời điểm này. Ở đây những giá trị kia cứ liên tục bị lẫn với những giá trị đối ngược, hậu quả là chúng thường có vẻ như cùng một lúc chỉ về các hướng khác nhau. Đây là bởi vì chúng chứa đựng một sự mơ hồ cốt yếu mà rốt cục thực sự tạo nên mâu thuẫn.

Truyện này kể về một cỗ máy hành hình các tù nhân theo kiểu tương xứng với tội ác của họ. Cỗ máy có nền tảng lý tính, nhưng cũng gây đau đớn và ác độc hơn, chẳng hạn như, một tiểu đội xử bắn. Ấy vậy mà cái ý tưởng lý tính ấy lại khiến cho cỗ máy trở thành niềm vui và niềm tự hào của một sĩ quan ở khu trừng giới. Nó được tạo ra bởi, và vì thế là di sản của, một cựu chỉ huy của trại, và vì thế có vẻ như chỉ về một quá khứ chưa được khai sáng. Chỉ huy mới có vẻ nghi ngờ cỗ máy, vì thế khiến cho viên sĩ quan sợ rằng nó sẽ sớm bị vứt bỏ.

Truyện bắt đầu với một du khách (nhà thám hiểm) tới thăm khu trừng giới và được đưa đi thăm một vòng, được đặc biệt hướng sự chú ý tới cỗ máy kia. Viên sĩ quan sợ rằng đây là một sự sắp đặt: y đoán rằng điều tay chỉ huy mới thực sự muốn là cho nhà thám hiểm kia biểu lộ sự kinh tởm trước cỗ máy và thế là tạo cơ hội để phá hủy nó. Hệ giá trị cố hữu trong tất cả những thứ này có vẻ đủ sáng rõ: quá khứ mông muội và tàn ác của cỗ máy cùng với viên sĩ quan tung hô nó hẳn sẽ bị gạt sang một bên dưới tay tương lai khai sáng hơn do cả chỉ huy mới lẫn nhà thám hiểm làm đại diện.

Tuy nhiên mọi việc lại không diễn ra như thế, bởi vì cả hai hệ giá trị đối lập này cứ liên tục lẫn vào nhau. Rắc rối đầu tiên là ngôn ngữ của chủ nghĩa lý tưởng lại bị cái bên không phù hợp độc chiếm – viên sĩ quan. Y xem cỗ máy là một thứ kỳ diệu. Nó viết tội ác của kẻ bị kết án lên lưng kẻ ấy, và viên sĩ quan tin rằng trong hành động ấy có cả cái đẹp lẫn công lý mà thậm chí đến kẻ bị kết án kia cũng hiểu. Nhưng cái hành động viết này được thực thi không phải bằng mực mà bằng kim: nó đâm vào thân thể của người bị kết án.

Viên sĩ quan cũng mê tít độ hoàn hảo về kỹ thuật của cỗ máy. (Lại một lần nữa, chủ đề từ truyện ngắn “Cái hang”, và một dấu hiệu cho thấy lý tính đang đi lạc sang hướng phi lý tính.) Độc giả nhìn thấy sự tàn ác, nhưng cách miêu tả cỗ máy của viên sĩ quan thì lại luôn ngăn trở một chủ đề cốt yếu của chủ nghĩa Khai sáng: rằng lý tính và tri thức giúp chúng ta trở thành người tốt hơn, vì thế có khả năng hiểu được những vấn đề đạo đức hệ trọng và hành xử tử tế và cảm thông. Ở đây mọi thứ lại như ngược lại, bởi vì viên sĩ quan có quá nhiều đức hạnh. Y trung thành (với vị chủ huy cũ), tôn sùng chính nghĩa, thể hiện sự liêm chính trong sự tôn sùng đó, đề cao công nghệ, cho thấy sự kiên nhẫn và thấu hiểu khi y giải thích hết sức cẩn trọng cách cỗ máy hoạt động, và trọng danh dự theo kiểu mà không ai khác bộc lộ – dĩ nhiên nhà thám hiểm thì không rồi, như tất cả chúng ta sẽ thấy. Y tôn sùng cái chính nghĩa của cỗ máy với một tình cảm gần như tôn giáo, và trong hành động tôn sùng cuối cùng y thậm chí sẵn lòng hy sinh bản thân mình cho nó.

Tất cả những chuyện này dường như để ngăn cản cho viên sĩ quan đứng khít vào vai trò của kẻ mông muội chưa được khai sáng mà cốt truyện đại cương rõ ràng là muốn phân cho y. Tồi tệ hơn, nhà thám hiểm lại không khít vào cái vai được phân cho mình khi không phải là kẻ đem lại cách sống khai sáng hơn. Thay vì kinh hãi trước sự tàn ác của cỗ máy như chúng ta tưởng vì cái vị trí được cho là của ông ta trong cốt truyện, nhà thám hiểm lại có vẻ chán chường với toàn bộ việc này: “Nhà thám hiểm không quan tâm mấy đến cỗ máy và ông đi đi lại lại phía sau lưng phạm nhân với một vẻ hoàn toàn vô tâm.”[4] Ông ta quan tâm hơn tới việc đồng phục của tay sĩ quan và cánh lính mặc có vẻ quá nặng nề ở vùng nhiệt đới.

Quả đúng là khi nhà thám hiểm bắt đầu hiểu cỗ máy, ông ta chống lại nó. Nhưng phản ứng của ông ta yếu ớt thấy rõ: giải thích của viên sĩ quan không làm ông ta thỏa mãn, ông ta nghĩ, nhưng “dù sao ông cũng buộc phải công nhận rằng đây là một trại lao cải, nơi đây cần phải có những biện pháp đặc biệt, và nói cho cùng thì cần phải được tiến hành theo kiểu quân sự.” Ông ta đang cố tìm ra một lý do để khỏi phải can thiệp.

Nhà thám hiểm tìm thấy lý do để không phải hành động: đó là sự tôn trọng các nền văn hóa khác, một trong những đặc điểm của chủ nghĩa Khai sáng – và cũng là một trong những cạm bẫy: “nhà thám hiểm suy nghĩ: nếu như ta can thiệp vào quyết định của người ngoài thì sẽ chẳng bao giờ đem lại ấn tượng tốt đẹp. Ông không phải là công dân của trại lao cải, cũng không phải là công dân của quốc gia có trại lao cải này. Nếu ông thử phản đối hoặc thậm chí thử ngăn cản cuộc hành hình thì người ta có thể sẽ bảo ông: ông là người ngoài, xin ông đừng có rối lên như thế.”

Nhà thám hiểm rõ ràng là vị quan tòa phân xử về mặt đạo đức, nhưng việc này chỉ có thể thành công nếu ông ta là tiếng nói của một nhân loại chung vượt thoát khỏi một địa phương nhất định. Ông ta nghe có vẻ bao dung, nhưng lòng bao dung của ông ta thực sự lại là của một kẻ không muốn bộc lộ quan điểm riêng của mình vì có thể khiến cuộc sống của mình trở nên khó khăn phức tạp. Ông ta không hề nghi ngờ gì chuyện cỗ máy phi nhân tàn bạo và quy trình xét xử không công bằng, nhưng khi được yêu cầu phải nêu rõ quan điểm thì ông ta lúc nào cũng lập lờ quanh co.

Tay sĩ quan cố nhấn vào vấn đề đạo đức bằng cách kêu gọi nhà thám hiểm ủng hộ, nhưng nhà thám hiểm thì không đáp lại. Khi tay sĩ quan cố lần nữa, vẫn chỉ có im lặng. Giờ thì tay sĩ quan cho chúng ta thấy rằng y hiểu sự mơ hồ trong hệ giá trị của nhà thám hiểm người Âu châu: “ngài đang bị kiềm chế bởi những quan niệm của châu Âu; thậm chí có thể theo nguyên tắc ngài là một đối thủ của hình phạt tử hình nói chung và của cách hành hình cơ học như thế này nói riêng… chắc chắn là ngài đã được thấy nhiều điều kỳ quặc của nhiều dân tộc và ngài đã học được cách tôn trọng họ, do đó có lẽ ngài sẽ không can thiệp quyết liệt chống lại phương pháp này như ngài có thể làm ở nước ngài.” Điều viên sĩ quan hiểu ra là châu Âu được khai sáng kia đi theo cả hai mô hình đối nghịch nhau: một mặt, sự bao dung văn hóa của nó dạy rằng tất cả các nền văn hóa đều xứng đáng được tôn trọng, nhưng mặt khác nó cũng tin tưởng vững chắc rằng đạo đức của nó là cái duy nhất đúng đắn. (Sự phải đạo chính trị thời hiện đại không phải là thứ phát minh ra sự mâu thuẫn này, như nhiều người dường như vẫn tưởng.)

Nhà thám hiểm tiếp tục bịa ra lý do cho việc ông ta không sẵn lòng phải đưa ra quan điểm cụ thể của mình. Ông ta chả gây ảnh hưởng gì được mấy với vị sĩ quan chỉ huy, ông ta bảo, vì thế không thể giúp cũng chả gây hại gì cho vị sĩ quan. Chỉ khi vị sĩ quan bắt đầu nhẩm đi nhẩm lại thật to cái chiến thắng tưởng tượng nếu có bao giờ nhà thám hiểm đứng về phía anh ta một cách công khai thì cuối cùng nhà thám hiểm mới nói: “Tôi là kẻ thù của thủ tục xét xử này.” Nhưng ngay cả sau đó ông ta cũng cuống cuồng quay trở lại một vị trí trung tính hơn bằng cách bảo với viên sĩ quan rằng ông ta bị ấn tượng bởi niềm tin chân thành của viên sĩ quan, và rằng vì thế ông ta sẽ không công khai tuyên bố quan điểm của mình, mà chỉ nói riêng với viên chỉ huy ông ta nghĩ gì mà thôi.

Chuyện xảy ra tiếp theo gần như là một cử chỉ biến chính mình thành phi lý của hai nhân vật này. Viên sĩ quan chuẩn bị cho cỗ máy hành động oanh liệt một lần cuối cùng bằng cách tự hiến tế chính mình, trong khi nhà thám hiểm thì tự nhủ rằng, “ông không hề có quyền ngăn cản viên sĩ quan thực hiện ý định của y. Nếu như cái thủ tục xét xử mà viên sĩ quan thiết tha ủng hộ sắp sửa bị bãi bỏ… thì giờ đây y sẽ phải hành động theo đúng logic của vấn đề; ở vào địa vị của y, ngay cả nhà thám hiểm cũng sẽ phải phản ứng như vậy.”

Trong “Trại lao cải” của Kafka, ban đầu cốt truyện tưởng như định phân vai cho hai nhân vật chính, định hướng thái độ mà độc giả nên dành cho họ. Đầu tiên là kẻ tra tấn trông lạc hậu, ác độc, tàn bạo, và thứ hai, tiếng nói của những thời đại tương lai nhân văn và được khai sáng hơn. Rắc rối là ở chỗ Kafka phân đặc điểm đúng mà sai người. Viên sĩ quan thì chu đáo, lý trí, lý tưởng, và nguyên tắc, trong khi nhà thám hiểm thì vô luân, ích kỷ, lơ là nhiệm vụ mà ông ta biết là nhiệm vụ của mình. Lúc kết thúc truyện nhà thám hiểm chuẩn bị lên tàu đưa ông ta đi xa khỏi cái khu trừng giới kỳ quặc này thì một cậu lính quèn từng hộ tống viên sĩ quan và một người đã bị kết án tử hình trên cỗ máy chạy vội xuống cầu tàu để theo ông ta trốn thoát khỏi đây. Hai người này bị cản lại quyết liệt: “Họ vẫn còn có thể kịp nhảy xuống thuyền, nhưng nhà thám hiểm đã nhặt dưới đáy thuyền lên một sợi dây cáp to với những nốt buộc sần sùi để đe dọa hai anh chàng kia, ngăn không cho họ nhảy xuống.” Vậy là sau khi cuộc giằng co giữa hai hệ đạo đức kết thúc, cái cuối cùng chiến thắng là một động cơ còn lâu đời hơn cả hai: bản năng tự bảo tồn.

Các nguyên lý của tinh thần Khai sáng bị đảo ngược, trong truyện này người tuân thủ nhất lý tính và nguyên tắc lại chính là người gây ra khổ đau nhất, và người lẽ ra nên là quan tòa đưa lại một thế giới nhân văn và công chính hơn thì lại bị tha hóa bởi động cơ rất con người mạnh mẽ nhất và cổ xưa nhất hạng. Và tồi tệ hơn, chính giá trị bao dung của tinh thần Khai sáng đã đem lại cho cái lực lượng cổ xưa này vỏ bọc mới. Tinh thần Khai sáng có thể cố hết sức đòi chúng ta phải có những tiêu chuẩn ứng xử cao hơn và tốt hơn, nhưng nó không thể thay đổi được bản chất con người chúng ta.

“Ein Landarzt” ( “Một thầy thuốc nông thôn”), giống như truyện “Trên khán đài”, là một văn bản ngắn thành công nhờ đặt thế giới được khai sáng bên cạnh thứ nó cố gắng thuần phục và chế ngự mà không thành công. Truyện mở ra với một thầy thuốc nông thôn rơi vào một tình thế khó xử: anh ta cố đến khám cho một bệnh nhân đau ốm, nhưng không có ngựa để thắng vào xe bởi vì ngựa của anh ta đã chết. Trong lúc quẫn bách anh ta đá vào cửa chuồng lợn bỏ không thì cánh cửa mở ra. Bên trong có hai con ngựa khổng lồ, cơ thể bốc hơi ngùn ngụt. Cùng xuất hiện với chúng là một gã đang ngồi xổm dưới đất.

Ngay từ đây chúng ta đã thấy cặp đối lập quen thuộc: một bên, vị thầy thuốc, con người văn minh của tri thức, lý tính, và lòng trắc ẩn, người hết lòng giúp đỡ kẻ khác. Còn một bên, thế lực mà anh ta cần viện tới để vận chuyển mình là cực trái ngược với mình: nó hiện ra từ trong chỗ tối đen sâu thẳm của một nơi bẩn thỉu, một cái chuồng lợn. Một thứ súc vật đầy đe dọa. Vị thầy thuốc có thể là con người của lý tính, nhưng cỗ xe của anh ta sẽ được kéo bởi một lực thú vật xuất hiện từ một nơi kinh tởm và tối tăm – một thế lực không có lương tâm. Nền văn minh cố thuần phục cái lực đó, nhưng không bao giờ thủ tiêu được nó.

Cái gã đi cùng hai con ngựa bò tứ chi ra khỏi cái chuồng lợn. Quyết định chấp nhận sự giúp đỡ và ngựa của gã của vị thầy thuốc chẳng mấy chốc đã mang dáng dấp một hiệp ước với quỷ dữ. Gã coi ngựa kéo cô hầu gái của vị thầy thuốc lại sát mình rồi cắn má cô. Thoạt tiên vị thầy thuốc tức giận, gọi gã coi ngựa là đồ súc vật, và dọa sẽ quất gã, nhưng rồi lại rơi lại vào thái độ vô tư công bằng và thiếu vắng phê phán mà suy nghĩ lý tính bình tĩnh luôn có khuynh hướng rơi vào, khi anh ta nghĩ: gã là một kẻ xa lạ; mình không biết gã từ đâu tới; và gã sẵn sàng giúp đỡ mình khi chả có ai chịu giúp cả. Con người lý tính và thiện ý cố tin rằng thế giới và tất cả những gì thuộc về nó đều giống như mình.

Vị thầy thuốc nhanh chóng trả giá cho việc suy nghĩ bình tĩnh đầy lý trí khi đối mặt với thế lực thú vật đơn thuần kia. Cô hầu gái chạy thoát khỏi kẻ tấn công vào nhà khóa cửa, nhưng tên kia đập tay vào nhau khiến hai con ngựa lồng lên chạy đi, mang theo vị thầy thuốc. Khi hai con ngựa phi đi, anh ta nghe thấy tiếng cửa nhà bị phá sập: cô gái sẽ không chống cự gì được, số phận cô do tên này định đoạt. Cuộc đời vị thầy thuốc giờ đây mất kiểm soát, và trong một giây cỗ xe của anh đã đến đứng trước cửa nhà bệnh nhân. Một người văn minh giờ đây bị khuất phục bởi những thế lực dã man mà anh ta đã giải phóng vì không chịu hiểu đặc tính của chúng.

Khi vị thầy thuốc vào phòng bệnh nhân, hai con ngựa đen đẩy cửa sổ mở ra thò đầu vào trong: chúng thống trị cảnh ấy. Bệnh nhân là một cậu bé, và gia đình cậu ta đứng nhìn vị thầy thuốc khám cho cậu. Thoạt tiên vị thầy thuốc nghĩ cậu ta hoàn toàn khỏe mạnh và tất cả đều bình thường. Phải nhìn lại lần nữa anh ta mới thấy sau rốt mọi thứ không bình thường: cậu trai kia bị một vết thương lớn ở bên sườn. Và giờ toàn bộ cảnh tượng này lao dốc xuống thành nghi lễ nguyên thủy khi gia đình bệnh nhân lột hết quần áo vị bác sĩ và đặt anh ta nằm lên giường cạnh cậu bé. Mê tín và những tập tục dân gian cổ xưa đột nhiên gạt sang bên tri thức y học hiện đại. Vị thầy thuốc vội chạy ra ngoài để tẩu thoát, vẫn trần truồng, tưởng rằng ngựa sẽ đưa mình về nhà ngay tắp lự, như khi chúng đưa anh ta đến. Thay vào đó, lũ ngựa lại đi với tốc độ sên bò, và giờ đây vị thầy thuốc hiểu ra hoàn cảnh tuyệt vọng của mình:

Thế này thì tôi sẽ chẳng bao giờ về được đến nhà; phòng khám đang ăn nên làm ra thế là đi tong; thằng kế nhiệm sẽ chiếm mất, nhưng chẳng ích gì đâu vì hắn sẽ không thay thế được tôi; cái thằng coi ngựa kinh tởm kia thì quần thảo phá nát nhà tôi; Rosa trở thành nạn nhân của hắn; tôi không thể nghĩ đến chuyện này. Trần truồng, phơi ra sương giá vào cái lúc khốn khổ nhất hạng trong mọi lúc, với cái xe trần tục còn ngựa thì phi lý, tôi là một lão già đi loạng choạng… Bị lừa! Bị lừa! Lỡ một lần đi theo tiếng chuông lừa mị của cái chuông đêm ấy thì thôi hết đường sửa chữa.

“Một thầy thuốc nông thôn” là một câu chuyện có tác động lớn về những luồng sóng ngược liên tục của những thế lực trong đời sống con người mà lý tính không thuần phục hoàn toàn được, và luôn dọa sẽ chiếm quyền kiểm soát. Lý tính của vị thầy thuốc đã làm cho anh ta mù lòa trước lớp sóng dội này, và vì thế anh ta hành động khinh suất, không hiểu ra được tình thế thực sự nguy hiểm đến thế nào.

Đối diện với thứ có vẻ là những câu chuyện gây hoang mang bối rối, độc giả và nhà phê bình thường trốn vào cái ý tưởng rằng những chuyện này không thể hiểu như những chuyện khác được, hoặc là có thể hiểu được theo nhiều cách khác nhau, hay thậm chí chúng giống như những giấc mơ. Câu trả lời đơn giản cho thái độ từ bỏ việc đọc để hiểu này là: nếu thứ gì đó có thể có nghĩa là bất cứ gì thì nó chẳng có nghĩa gì cả. Hậu quả không thể tránh khỏi của cái ý niệm rằng Kafka có thể có nghĩa là bất cứ gì là một lối suy đoán siêu hình cực kỳ lộn xộn không có chút căn cứ gì trong những thứ mà ông đã thực sự viết ra. Nhưng thay vì mơ hồ và vô định, các câu chuyện của Kafka thật ra là những nghiên cứu chủ đề tập trung cực kỳ chặt chẽ.

Một cách tẩu thoát khác để khỏi phải hiểu Kafka viết về cái gì là cái ý tưởng hủy diệt rằng tác phẩm của ông chỉ ghi chép lại nỗi tuyệt vọng của ông với đời sống hiện đại; việc này, có vẻ như, giải thích cho sự u ám và nghịch dị tràn ngập khắp tác phẩm. Nhưng, ngược lại, rất nhiều người đã tường thuật lại rằng Kafka thường cười phá lên khi đọc tác phẩm của mình: ông không hề thấy nó u ám, và không có lý do gì chúng ta nên thấy như vậy cả. Có những yếu tố nghịch dị nhất định ở Kafka thật đấy, nhưng đây là sự nghịch dị của người vẽ tranh biếm họa. Biếm họa bóp méo hiện thực của một khuôn mặt, chẳng hạn, để nó có thể tô đậm thêm những đường nét nổi bật và thú vị nhất. Tương tự như thế, cái con vật mà Gregor trở thành trong “Hóa thân” là bức biếm họa về mối quan hệ của anh với gia đình mình, và còn có rất nhiều những trường hợp khác trong tác phẩm của ông.

Thay vì bị thống trị bởi sự u ám ủy mị, tác phẩm của Kafka là lời bình luận đầy tính trí tuệ và dí dỏm về những khía cạnh cá biệt của đời sống con người – chủ yếu là sự điên rồ của con người. Nếu thế giới của Kafka có vẻ quái đản, thì đó là bởi vì các nhân vật của ông thường hoang mang trong một thế giới hậu Khai sáng. Cứ như thể họ vẫn chưa học được cách phải làm gì với lý tính. Con vật trong “Cái hang” khăng khăng rằng quyền lực của lý tính phải thắng thế, nhưng lại không thể ngăn được chính mình cứ liên tục dệt nên những mạng lưới biện luận mới mà chỉ càng làm cho nó bối rối và mất định hướng. Viên đạc điền trong Lâu đài làm cho mình kiệt quệ khi cố hiểu cái tổ chức không thể nào hiểu được theo cách mà anh ta muốn hiểu nó. Georg trong “Lời tuyên án” bày ra hàng loạt những biện luận phức tạp mà anh ta dùng không phải để hiểu thế giới, mà để làm vũ khí phòng bị và tấn công, thứ vũ khí chừa lại cho những người không còn có thể dùng cây chùy để dàn xếp mọi việc.

Trong lịch sử ý tưởng và đạo đức, phong trào Khai sáng là một bước ngoặt, một sáng kiến rõ ràng nhằm làm cho đời sống con người trở nên tương đối khác biệt với trước đây, và còn tương đối tốt đẹp hơn. Nhưng trong tiến trình tiến hóa của loài người, không có điểm ngoặt nào tương tự cả, không có thời điểm nào mà chúng ta đột nhiên trở nên khác đi. Chính cái sự không nhất quán đó là thứ mà phần lớn bình luận dí dỏm của Kafka tập trung vào – và có lẽ chính là thứ mà ông đưa ra cười nhạo.

John M. Ellis

Alicia Oanh Le, Zét Nguyễn dịch

Bản gốc tại: https://www.newcriterion.com/issues/2018/11/how-to-read-kafka-part-ii

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sun Mar 12, 2023 5:44 am

“Hóa thân” (Franz Kafka) – Trước nghịch cảnh, con người có thể “hóa thân”?

Sasakiyuu.blog

Franz Kafka, nhà văn Tiệp Khắc gốc Do Thái nói tiếng Đức. Ông là một nhà văn có lối viết “quái dị”, những câu văn lạnh tỉnh, gây ám ảnh người đọc.

“Hóa thân” (tiếng Đức: Die Verwandlung) xuất bản năm 1915, là một trong những tác phẩm xuất sắc của Franz Kafka, một câu chuyện tưởng chừng rất bình thường song lại đầy bi kịch và ám ảnh.

“Hóa thân” là câu chuyện xoay quanh một nhân vật có tên Gregor Samsa, một ngày kia bỗng bị “biến hình” trở thành một con bọ khổng lồ. Trước đó, Gregor Samsa dù không quá hạnh phúc nhưng vẫn là một con người mạnh khoẻ, có ích, là trụ cột của cả gia đình với bố, mẹ và cô em gái. Tuy nhiên, biến cố lớn kỳ quặc đó đã bỗng chốc làm đảo lộn mọi thứ trong cuộc sống của anh. Gregor Samsa đã phải chịu đựng một quãng thời gian dài sống trong bóng tối, sống trong sự hắt hủi, niềm ghê tởm và nỗi kinh ghét của những người xung quanh, kể cả người thân của mình. Cuối cùng, Gregor chết trong cô đơn, và gia đình của anh thư thái đón chào một cuộc sống mới.

“Hóa thân” là một câu truyện có dung lượng vừa nhưng khắc nghiệt; lời văn tỉnh lạnh, thái độ của nhân vật tỉnh táo đến ám ảnh. Gregor hiện lên là một con người luôn nghĩ đến gia đình; anh hầu như chưa bao giờ nghĩ về lợi ích cá nhân trước đó. Ngay cả khi bị biến thành một con vật gớm ghiếc bị tất cả sợ hãi, xa lánh, Gregor vẫn lo lắng làm sao kiếm tiền cho gia đình mình. Suốt khoảng thời gian sống trong bóng tối, tuy Samsa không còn khả năng nói tiếng người, thích ăn đồ hỏng, thích bò qua bò lại, bám trên tường… – những hành vi của loài sâu bọ, nhưng Samsa chưa một lần đánh mất tính “người” của mình. Anh nghĩ về cuộc sống trước đây của mình, một cuộc sống thật đáng chán: “Mọi người đã dần quen với điều này một cách đương nhiên, cả gia đình lẫn Gregor. Những đồng tiền được đón nhận với lòng biết ơn và được ban phát với niềm vui sướng, nhưng nào còn nữa cái tình cảm nồng nhiệt đặc biệt trào dâng như hồi đầu.”. Trước thái độ miệt thị của người bố, trước sự sợ hãi, bất lực của người mẹ, trước sự thay đổi từ một người em luôn yêu mến anh trai thành một con người lạnh lùng, ghét bỏ, phủ nhận sự tồn tại của anh trai, Gregor Samsa hoài nghi về thế giới, về chính con người mình: “Tôi là ai?”. Gregor luôn sống trong trạng thái đấu tranh để giữ lấy tính “người” của mình. Con người sẽ được nhìn nhận là con người khi nào, từ bản thân anh ta hay từ những người xung quanh anh ta. Gregor từ đầu đến cuối truyện luôn suy nghĩ như một con người, nhưng anh dần đã bị bẻ ngoặt thành côn trùng bởi góc nhìn của tất cả những người xung quanh anh. Sự nhận diện đó đã khiến phần người trong anh bị đổ vỡ dần dần. Nhưng đối nghịch lại, cái tinh thần tự ý muốn làm người ấy mạnh mẽ đến mức cố gắng chống chọi với cái thực thể thân xác trần thế của mình, Gregor tìm cách bẻ gãy cái lớp vỏ cánh cứng, cái thân nhiều chân,… để tìm lại tính “người” của mình. Cái chết trong bóng tối và cô độc của Gregor chính là sự tất yếu và duy nhất, cái chết đã giải thoát Gregor khỏi sự cô độc, khỏi sự bị miệt thị của những người xung quanh.

Bất kỳ nhân vật còn lại nào trong “Hóa thân” cũng đều “hóa thân”. Tình thương dần dần sụp đổ bởi nỗi sợ hãi và cuộc sống khó khăn. Đặc biệt là Grete, em gái Gregor. Cuối cùng thì tình cảm gia đình cô dành cho anh trai của mình thực sự là gì? Nói cách khác, vì sao Grete lại yêu Gregor, chăm sóc Gregor? Vì anh đã nuôi sống bản cô, nuôi ước mơ vào Nhạc viện của cô? Hay là vì cô muốn thỏa mãn chính mình: một người em thì phải chăm sóc anh trai mình? Thật thực dụng. Song, chính bản thân cô cũng rơi vào bi kịch. Grete yêu anh mình, nhưng cô cũng lại rất sợ hãi và ghê tởm anh. Cô muốn thể hiện tình yêu của mình với Gregor, nhưng rồi chính nỗi sợ hãi và ghê tởm đã khiến cô hành động như thể cô căm ghét anh. Cuối cùng, cô quyết định phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của anh mình, như một cách tự giải thoát khỏi bi kịch. “Bố phải cố rũ bỏ ý nghĩ rằng con vật đó lại là anh Gregor. Chính vì lâu nay chúng ta cứ tin vào điều đó nên mới nảy sinh ra bao nhiêu là rắc rối. Nhưng nó làm sao có thể là anh Gregor được? Nếu đó là Gregor thì anh ấy hẳn phải nhận biết từ lâu rằng con người không thể nào sống chung với một con vật ghê tởm như thế được và có lẽ anh ấy đã tự động bò đi rồi. Như thế chúng ta thiếu mất một người thân nhưng chúng ta có thể tiếp tục sống và tưởng nhớ mãi đến anh ấy.”

“Hóa thân” thực sự đã buộc chúng ta phải suy nghĩ về cuộc đời của mỗi người, về mối quan hệ giữa người và người, về tình thương, tình cảm gia đình khi đặt trong một hoàn cảnh ngặt nghèo thử thách con người. Ai rồi cũng sẽ “hóa thân”, nhưng ai sẽ là người còn giữ lại được chính bản thân mình? Đó là một vấn đề mang tính nhân loại.

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sun Mar 12, 2023 5:47 am

SÁCH NƯỚC MỸ (KẺ MẤT TÍCH) – HÀNH TRÌNH KIẾM TÌM TỰ DO CỦA KẺ LƯU VONG CÔ ĐỘC

Mọt Mọt - tonvinhvanhoadoc

Được đánh giá là “tia sáng lẻ loi bên ngoài chùm tác phẩm đã trở thành huyền thoại” của Franz Kafka, tiểu thuyết Nước Mỹ (Kẻ mất tích) kể về số phận “lên voi xuống chó” của chàng thanh niên Karl Roβmann sau khi “gây họa” ở quê nhà, buộc phải lưu vong sang nước Mỹ lánh nạn. Và với vị trí là cuốn tiểu thuyết đầu tay, Nước Mỹ (Kẻ mất tích) có ý nghĩa như viên gạch nền cho văn nghiệp của một trong những tác gia vĩ đại nhất nửa đầu thế kỉ XX cũng như cả văn học thế giới thời hiện đại.

Kẻ lưu vong cô độc

Có thể nói, hình tượng kẻ cô độc vẫn luôn thường trực trong văn chương Kafka, bằng hình thức này hay hình thức khác. Là một K. đơn độc trên con đường đến được lâu đài xa ngái. Là một Joseph K vô vọng khi đối diện cửa công quyền, chứng minh sự trong sạch của bản thân trong một vụ án anh chẳng thể hiểu lí do vì sao bản thân bị gán tội. Hay một Gregor Samsa, cô độc trong căn nhà của chính mình khi đã hóa thân thành một con bọ khổng lồ.

Tuy nhiên, với tiểu thuyết đầu tay Nước Mỹ (Kẻ mất tích), bóng hình kẻ lưu vong cô độc lại đặc biệt hơn hết thảy. Bởi con người ấy trẻ hơn rất nhiều so với những cá nhân khác mà về sau Kafka xây dựng và chàng trai trẻ đấy thật sự phải chịu cảnh “lưu vong”, tha phương nơi đất người. Chưa tròn 17 tuổi, Karl Roβmann đã cất bước sang hải ngoại bởi tội lỗi ái tình cậu gây ra ở quê hương nước Đức. Một thân một mình trên chuyến tàu vô danh, Karl mang theo tủi nhục quá khứ, sự tự ti của một kẻ nhập cư lẫn giấc mơ màu hồng về miền đất hứa cậu sắp đặt chân đến.

Và rất nhanh, Karl Roβmann đã sớm nhận ra, đợi chờ cậu ở phía trước là sự đơn độc đến cùng cực. Không gia đình, không thể giao tiếp, không tìm được tiếng nói chung với bất kì ai giữa vùng đất khách. Có những lúc, Karl ngỡ rằng một tay cậu đã chạm tới hạnh phúc khi tìm thấy một nơi nương tựa, một gia đình, một chốn đi về. Nhưng rồi chẳng bao lâu, chàng thiếu niên còn chưa trưởng thành đó phải thất vọng ê chề khi đối diện trước bất công xã hội.

Giữa nước Mỹ, vốn được coi như miền đất hứa của tự do, dân chủ, kẻ nhập cư như Karl lại trở thành một tồn tại ngoại lai, đầy dị biệt. Để rồi, càng lúc, sự tủi nhục trong quá khứ, nỗi ê chề ở thực tại càng thêm ăn sâu vào cô đơn không lối thoát. Tháng ngày Karl sống trên đất Mỹ, có thể nói là hành trình cậu vẫy vùng vượt thoát đơn côi bủa vây, tìm một chỗ đứng, dù có tồi tàn để cái tôi nhỏ bé của cậu tồn tại.

Đấy là một hành trình “lên voi xuống chó”, nhưng cũng có thể nói rằng, hành trình đó tựa khát vọng chàng thiếu niên nhạy cảm lầm lũi sống trong xã hội nghiệt ngã đang ngày càng thu hẹp dần. Ban đầu tới Mỹ, Karl có gia đình, sống trong nhung lụa với người bác quyền cao chức trọng. Sau đấy, cậu sống giữa tình thương của những người đồng hương tốt bụng, mặc cho công việc có nặng nhọc. Rồi Karl bị quăng vào kiếp đời nô lệ. Và kết truyện, chàng trai trẻ lại lên chuyến tàu vô định, giữa bao gương mặt xa lạ. “Cậu biết mọi điều mình có thể nói ra sẽ bị bóp méo thành khác hẳn với ý mình nghĩ, nên chỉ còn biết phó mặc cho họ phán quyết, dù tốt hay xấu.”

Tựa truyện, có phần chú thích trong ngoặc đơn: Kẻ mất tích, như một biểu tượng cho Karl Roβmann, con người đã đánh mất cả quê hương, cả bản ngã, thậm chí cả tên gọi giữa dòng xoáy cuộc đời cay nghiệt. Hình tượng kẻ lưu vong, gánh nặng cô đơn đè lên vai cậu trai chưa cả trưởng thành, phải chăng cũng như lời tiên đoán của Kafka cho một tương lai, người trẻ mãi lầm lũi giữa xã hội với một cái tôi cô đơn đến cùng cực? Và Nước Mỹ ở đây, có lẽ cũng chỉ là một hình ảnh biểu tượng cho nơi đến của một tâm hồn thiếu vắng quê hương.

Bìa cuốn sách Nước Mỹ (Kẻ mất tich)

Hành trình kiếm tìm tự do

Tuy nhiên, dù trong Nước Mỹ (Kẻ mất tich), Karl Roβmann có cô đơn và cảm thấy vô vọng đến đâu trên hành trình hòa nhập với cuộc sống mới, giao hòa cùng con người tại nơi ở mới thì tới tận cùng, chàng trai ấy gần như chưa một lần đánh mất hi vọng. Karl vẫn luôn tiến về phía trước mặc cho cuộc đời nghiệt ngã, bằng khát vọng tự do cháy bỏng.

Thật vậy, Karl rời bỏ tất cả, để lại sau lưng tủi nhục quá khứ, lưu vong sang Mỹ, chính là hình thức đầu tiên trên bước đường tìm về hai chữ tự do, làm lại cuộc đời của chàng trai trẻ. Không gian tác phẩm chuyển dịch từ không gian rộng mở, chênh vênh sang không gian mỗi lúc một thu hẹp: nơi ở của ông bác thượng nghị sĩ Jacob, khách sạn Occidental, căn hộ hai tên bạn phản trắc Delamarche và Robinson đang sống cùng Brunelda, cuối cùng khép lại là chiếc tàu của hí viện tới Oklahama rẽ nước ra khơi. Sự thu hẹp không gian, cũng như sự dịch chuyển, thu hẹp tâm hồn Karl, làm cậu dần nhận ra sự cay nghiệt của thế giới.

Tình cảm giữa con người với con người, nhất là người mang cùng huyết thống trở nên mong manh đến đáng thương. Chân lí, pháp luật dường như hết sức xa vời. Người ta dần đánh mất những quyền cơ bản nhất, thậm chí đến cả bản năng phản kháng cũng không còn. Mặc cho số phận đẩy đưa, mặc cho người khác định đoạt, con người dần mất lẽ sống lẫn mục đích tồn tại. Cuối cùng, người ta chỉ còn lại một thân xác vô hồn giữa dòng xoáy cuộc đời.

Karl đã có thể trở thành kẻ như thế, và bản thân cậu, cũng không thiếu đi những khoảnh khắc hành động như một cỗ máy. Karl dễ dàng chấp nhận việc gánh trên vai nỗi tủi nhục của kẻ tội đồ, dễ dàng chấp nhận sự tan vỡ trong mối quan hệ với ông bác. Và cả tấm ảnh chụp cùng cha mẹ thuở còn sống ở quê nhà, cậu đã gay gắt muốn đòi lại, mà rồi mọi chuyện cũng dần chìm vào quên lãng.

Nhưng tới tận cùng, chàng trai trẻ vẫn không ngừng vươn lên. Có thể sự nhiệt tình thuở mới bước chân vào sóng gió cuộc đời đã lắng lại nhưng khao khát vươn tới tự do vẫn còn đấy. Bởi nếu không, Karl đã không tiếp tục sống, khát khao sống một cách toàn vẹn, chứ không chỉ là tồn tại vô nghĩa lí, dần kiệt quệ cả thể xác lẫn tinh thần như cách gã Robinson mài mòn sinh mệnh trong căn hộ phong kín của Brunelda. Và bóng hình người mẹ, kỉ niệm quê cũ, thấp thoảng ẩn hiện trong kí ức Karl, tựa chiếc mỏ neo níu giữ khát vọng ấy mãi trong tâm hồn cậu.

Câu chuyện khép lại bằng một hình ảnh rất mở: Karl lại đặt chân lên một chuyến tàu, tới vùng đất mới có cái tên như thực như hư: Oklahama. Là bởi Kafka đã bỏ dở Nước Mỹ (Kẻ mất tích) không viết nữa, hay vốn, đây chính là dụng ý nghệ thuật của Kafka nhằm tạo sự đầu cuối tương ứng cho tác phẩm. Karl đến nước Mỹ trên một chuyến tàu vô định, và từ chuyến tàu vô định khác, cậu lại quăng mình tới tương lai. Một tương lai không có gì chắc chắn, song vẫn chở theo hi vọng khắc khoải về hai tiếng tự do của một chàng trai trẻ tuổi.

Nhà văn Franz Kafka thời trẻ. Ảnh: TL

Viên gạch nền cho văn nghiệp Franz Kafka

Với vị trí là tiểu thuyết đầu tay của Franz Kafka, Nước Mỹ (Kẻ mất tích) có ý nghĩa như viên gạch nền cho văn nghiệp Kafka, là tiền đề để ông sáng tác hàng loạt tác phẩm bất hủ sau này.

Tiền đề đó, trước hết là sự sáng tạo huyền thoại độc đáo mà Kafka đã manh nha thể hiện trong Nước Mỹ (Kẻ mất tích). Tội lỗi Karl gây ra ở quê nhà, việc cậu lưu lạc trên một con tàu từ Đức sang Mỹ và về sau là con tàu vô định tới Oklahama không khỏi khiến người ta liên tưởng đến tích “trái cấm” cùng con tàu Noah trong Kinh Thánh. Hay một người phụ nữ quá khổ, tính tình tựa trẻ con như Brunelda, sự sinh hoạt khác thường ở gia đình cô ta cũng là một hiện thực đầy sự huyền ảo. Ngoài ra, “ngôi nhà nông thôn” như một biệt phủ chằng chịt tựa mê cung của ông Pollunder lại gợi nhớ tới Lâu đài người tá điền K. mãi chẳng thể đặt chân tới. Và ngay chính hình ảnh nước Mỹ cũng là sự sáng tạo của riêng Kafka, khi bản thân ông, chưa một lần đặt chân tới đất nước này.

Bên cạnh đó, hình ảnh một Karl Roβmann đang vẫy vùng chống lại sự cứu rỗi của Kyoto giáo, hay rộng hơn, là chống lại sự tha hóa của bản thân giữa hệ thống những điều phi lí, trái ngang trong xã hội để được sống là một con người trọn vẹn. Nhưng chân lí lại hết sức xa vời còn sự bất công lại hiện diện muôn nơi, và những kẻ ngoại lai, người lao động lam lũ thì quá đỗi bé mọn. Như Karl, như người thợ đốt lò, như những người trực thang máy nơi khách sạn… Và độc giả sẽ gặp lại những cá nhân mang tính biểu tượng ấy trong hình bóng Joseph K. ở Vụ án hoặc truyện ngắn Trước cửa công quyền Kafka viết sau này.

Nhưng cũng bởi là viên gạch nền, nên ở Nước Mỹ (Kẻ mất tích) vẫn chứa đựng sự trong trẻo cùng niềm tin, hi vọng rất mực của Kafka vào tương lai. Như cách ông đã để Karl Roβmann tiếp tục sống, tiếp tục hướng đến bến đỗ tiếp theo trên chuyến tàu hư ảo tới Oklahama vậy.

Theo vannghequandoi.com.vn

Hồng Nhung đăng bài

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sun Mar 12, 2023 6:00 am

25 lý do sáng tỏ tại sao việc đọc sách lại quan trọng: Giải quyết được 80% vấn đề, sống được nhiều cuộc đời, và hơn thế nữa!

Cafef..

Hai mươi lăm lý do cho bạn biết vì sao con người cần phải đọc sách.

Người đọc sách hay người không đọc sách, người đọc ít sách hay người đọc nhiều sách rồi thì cũng vẫn sẽ sống một cuộc đời bình thường giống như bao người khác. Họ lớn lên, đi làm rồi kết hôn sinh con. Vậy thì con người cần gì phải đọc sách thêm cho mệt nhỉ?

1. Đọc sách sẽ đưa bạn đến những nơi mà chân không thể đi và thấy những nơi mà mắt không thể nhìn.

2. Nếu bạn nghĩ, người sống đến già thì phải học đến già, thì cuộc sống này ắt vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn đang chờ bạn khám phá. Con người sẽ chết khi đánh mất đi sự tò mò của bản thân.

3. Đọc sách nhiều để cải thiện khả năng viết của bản thân.

Không phải ai sinh ra cũng là một Lý Bạch chỉ cần đặt bút xuống là tuôn được ra những lời hay ý đẹp. Nhưng tất cả chúng ta đều có cơ hội trở thành một Đỗ Phủ chăm chỉ tích lũy kiến thức, mài giũa kỹ năng và tư duy viết cá nhân mà đợi ngày thành tài.

4. Đọc sách là vì để cho bạn của tương lai và những người thân yêu của bạn biết trên đời này không chỉ có mỗi cơm áo gạo tiền, mà còn phải biết thưởng thức nghệ thuật và giải trí.

Ngay cả khi đời sống vật chất có khô khan tới đâu, việc dành thời gian đọc sách sẽ làm cho đời sống tinh thần của bạn phong phú hơn nhiều.

5. Đọc sách có hai ý nghĩa: Một là làm cho con người có thể sống một cách đàng hoàng không tự ti, không hống hách. Hai là làm cho tâm hồn con người được trong sạch.

Bạn có thể quên sạch sành sanh cuốn sách vừa đọc xong. Giống như nước đổ vào thân trúc, cứ thế trôi đi mà không đọng lại giọt nào. Nhưng sau nhiều lần như thế, thân trúc thân tre sẽ được gột rửa mà trở nên trong sạch hơn.

Người đọc sách mỗi ngày, có thể họ sẽ không nhớ được bất cứ điều gì. Nhưng trong tiềm thức, họ sẽ hiểu đâu là đúng, đâu là sai.

6. Con người vì sao lại cần đọc sách?

Khi thấy chim bay trên trời, người đọc nhiều sách nói: "Khung trời hoàng hôn với cánh chim đơn côi, Cùng non cùng nước mây trời ngàn thu." Người không đọc nhiều chỉ nói: "Oa, chim kìa." Đọc sách sẽ làm cho bạn trở thành một người ấm áp, biết cảm thụ, biết thưởng thức, biết quan tâm và biết suy nghĩ.

7. Biết thêm được một chút kiến thức thì cũng ít phải nhờ vả người khác hơn.

Mục đích cơ bản của việc đọc là giúp mình thấu hiểu thế giới, hiểu rõ chính mình cũng như tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy bản thân tiến lên khi không còn gì để dựa vào.

8. Đọc sách là chuyến du lịch rẻ nhất.

Nhờ đọc sách, bạn có thể đi đến khắp mọi nơi trên thế giới và kết thân với mọi vĩ nhân của thời đại. Ngày bạn mở ra một cuốn sách cũng là ngày bạn vừa khám phá ra một thế giới mới.

9. Đất đai hay tiền của rồi cũng có thể mất, nhưng kiến thức và văn hóa một khi đã tiếp thu thì nó vẫn sẽ mãi là của bạn. Điều quan trọng nhất trong đời này là mỗi người cần phải có cho mình một thứ mà người khác có muốn cũng không thể lấy được.

 10. Đọc sách cho bạn sống được 1000 cuộc đời.

Nhưng không đọc sách, bạn chỉ có thể sống một cuộc đời của bạn mà thôi. Con người không thể bất tử, nhưng đọc sách sẽ giúp cuộc đời của mỗi người trở nên sâu sắc và rộng mở hơn.

11. Đọc sách có thể chữa lành sự cô đơn.

Người thích đọc sách là người luôn tìm được cho mình một người bạn trung thành, một người thầy mẫu mực, một người đồng hành đáng yêu và một người an ủi tuyệt vời.

12. Tôi đã đọc rất nhiều sách và cũng quên gần hết. Vậy thì ý nghĩa của việc đọc là gì? Khi còn nhỏ, tôi đã ăn rất nhiều thức ăn, mà giờ thì tôi cũng đâu thể nhớ mình đã ăn gì. Nhưng tôi chắc chắn một điều rằng, những thứ thức ăn đó đã thành xương thành thịt, thành một phần cơ thể của tôi.

13. Đọc sách sẽ giúp bạn bớt được hơn 80% sự hoang mang. Chúng ta hoang mang phần nhiều là do chúng ta đọc thì ít mà nghĩ thì nhiều.

14 Đọc sách có thể thay đổi dung mạo và hun đúc nên khí chất tao nhã cho mỗi người.

Tam Mao nói: "Người đọc nhiều sách thì tự dưng ngoại hình cũng sẽ thay đổi. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng những cuốn sách đã đọc ấy giống như nước chảy mây trôi. Nhưng hóa ra nó vẫn luôn ẩn giấu ở trong mình."

Những cuốn sách ta đã đọc đều để lại dấu ấn trong tính cách, trong lời ăn tiếng nói, trong tâm tưởng, trong đời sống và trong câu chữ của chính mình.

15. Những cuốn sách bạn đã đọc và những nơi bạn từng đến chính là toàn cảnh cuộc đời bạn. Người không đọc không biết đường ở đâu. Người không đi thì sẽ không hiểu hết ý nghĩa của cuốn sách. Đường bạn đã đi cũng giống như sách bạn đã đọc. Chỉ khi bạn thực sự trải nghiệm thì nó mới trở thành kinh nghiệm và cuộc đời của bạn. Chính những thứ vô hình này sẽ giữ cho tâm trí bạn luôn sáng suốt để nhìn nhận về cuộc sống và thế gian này.

16. Đọc là một quá trình khiến bản thân trở nên cao lớn hơn.

Đọc sách là cuộc thám hiểm một lục địa mới hay là một cuộc chinh phục vùng đất mới. Đọc sách là một cuộc dạo chơi của tâm hồn, khi mà những cảnh đẹp tráng lệ vẫn luôn bày ra trước mắt qua những con chữ.

17. Đọc sách làm cuộc đời trở nên thú vị hơn.

Bạn nhất định sẽ nhận được sự đền đáp xứng đáng cho mỗi giây phút dành cho việc đọc sách. Cuộc sống tuy mộc mạc nhưng tâm hồn lại giàu có, thế nên dù có lún sâu xuống vũng bùn vẫn có thể ngẩng đầu lên sao sáng.

18. Sách là thuốc, đọc nhiều sẽ trị được bệnh "ngu".

Đọc sách giúp bạn lặng lẽ tìm hiểu về thế giới, để xóa đi sự hời hợt và vô tri trên gương mặt của mỗi người.

19. Đọc nhiều hơn không phải để hùng biện và phản bác nhiều hơn, mà để suy nghĩ và cân nhắc kỹ hơn cũng như bớt đi vài phần mù quáng và cả tin khi gặp phải bất cứ vấn đề gì. Đọc sách sẽ giúp bạn tỉnh táo và tìm thấy chính kiến của mình. Như vậy, bạn sẽ không còn là cái đẽo cày giữa đường, người ta muốn sao thì thành vậy.

20. Tại sao bạn cần phải đọc nhiều sách? Đọc sách sẽ cho ta thêm dũng khí để duy trì lòng tự trọng bằng ý chí cá nhân. Nếu người ta không yêu mình, chúng ta cũng sẽ dứt khoát rời đi mà không cần vấn vương.

 21. Có nhà văn từng viết: "Con của mẹ, mẹ muốn con chăm chỉ đọc sách không phải vì mẹ muốn đem con so sánh ra với người khác. Mẹ muốn con đọc sách vì mong con sau này sẽ có nhiều lựa chọn hơn, chọn được những công việc có ý nghĩa, thay vì bị ép buộc phải đi bươn trải mưu sinh." Khi bạn cảm thấy công việc của mình có ý nghĩa, bạn sẽ cảm thấy giống như bản thân vừa đạt được một thành tựu gì đó. Công việc có ý nghĩa chỉ sử dụng thời gian, chứ không tước đoạt toàn bộ cuộc sống. Như vậy thì tôn nghiêm của bạn vẫn được bảo toàn. Thành tựu và tôn nghiêm chính là hai điều sẽ mang hạnh phúc đến cho bạn.

22. Đọc sách, đi học và đến những nơi xa hơn là để tránh xa những người không muốn gặp, để không cần phải làm những việc không muốn và hy vọng rằng tất cả chúng ta đều có thể vẫn không thay đổi. Thích đọc sách cũng tương tự như việc biến những khoảnh khắc cô đơn trở thành một khoảnh khắc hưởng thụ.

23. Bạn không thể lắng nghe và tiếp thu những gì người khác nói. Có lẽ bạn nên chuyển hướng sang đọc sách làm kênh tiếp nhận thông tin và tri thức.

24. Những trang sách bạn đọc sẽ hun đúc nên khí chất của bạn. Năm tháng chảy trôi sẽ khiến chúng ta quên đi những cuốn sách đã đọc, những chuyện đã trải qua. Nhưng những thứ còn sót lại sẽ là lớp trầm tích lặn sâu xuống mảnh đất tiềm thức để âm thầm nhào nặn nên những phẩm chất của bạn.

25. Bạn sẽ tìm thấy lời giải cho tất cả những khúc mắc và nghi ngờ của cuộc sống trong những cuốn sách. Đọc sách vẫn luôn là cách đơn giản mà hữu hiệu nhất để xua tan sự u mê và chống lại sự tầm thường. Đọc sách giống như một cuộc hành trình tuyệt vời, mang lại cho chúng ta những trải nghiệm phong phú.

Hãy dành cho bản thân một chút thời gian để tĩnh tâm đọc sách. Nó sẽ nuôi dưỡng và thay đổi bạn từng chút một. Đồng thời, nó cũng sẽ biến kiến ​​thức thành động lực và chất dinh dưỡng để thúc đẩy bạn trưởng thành.

Theo Đình Trọng


Last edited by LDN on Sun Mar 12, 2023 6:08 am; edited 1 time in total

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sun Mar 12, 2023 6:08 am

Đừng thắc mắc tại sao bạn đọc 100 cuốn sách mỗi năm mà vẫn chưa thành công, để tôi chỉ bạn cách đọc sách đúng cách

Phenikaa...

Không phải cứ đọc nhiều sách sẽ thành công. Người thành công không thành công nhờ đọc nhiều sách mà vì họ biết cách đọc sách hiệu quả và áp dụng được những gì học được vào công việc của họ.

Aytekin Tank là nhà sáng lập, CEO của JotForm – một công ty chuyên cung cấp nền tảng thiết kế biểu mẫu online có trụ sở tại San Francisco, Mỹ. Ngoài ra, Aytekin Tank còn là một cây bút với nhiều bài viết về cuộc sống, sự nghiệp, công nghệ… cho nhiều tờ báo và tạp chí điện tử.

Dưới đây là bài viết của Tank trên chia sẻ góc nhìn của anh về chuyện đọc sách và cách đọc sách trên trang Medium:

Đọc sách là một xu hướng, nó đáng giá vì nó tốt cho chúng ta. Đọc sách càng nhiều càng tốt, càng đọc, chúng ta càng thông minh hơn. Đó là lý do tại sao Mark Zuckerberg, Bill Gates và Elon Musk thành công. Nhưng thời gian đâu để chúng ta đọc sách? Do vậy, chúng ta phải đọc nhanh hơn, nhanh hơn và nhanh hơn nữa!

Tốc độ đọc đã trở thành một môn thể thao cạnh tranh: cuộc đua để xem ai có thể đọc hết danh sách Bestseller của New York Times một cách nhanh nhất.

Sự thật về tốc độ đọc

Tốc độ đọc của con người đã tăng lên trong nhiều thập kỷ qua.

Tổng thống Kennedy có thể đọc được khoảng 1.200 từ trong một phút. Howard Berg có thể đọc hơn 80 trang văn bản mỗi phút (theo ấn bản năm 1990 của Sách kỷ lục Guinness). Tuy nhiên, chuyên gia đọc Mark Pennington đã làm rõ điều này là một lời nói dối mà Guinness đã không kiểm chứng. Nghiên cứu đã liên tục bóc trần những tuyên bố về những người đọc tốc độ và khoa học cung cấp một sự bác bỏ mạnh mẽ không kém.

Theo Giáo sư, nhà nghiên cứu về mắt Keith Rayner giải thích, các kỹ thuật như đọc đồng thời các phân đoạn lớn của trang sách không phải về mặt sinh học hay tâm lý, nó phụ thuộc vào vùng giới hạn nhìn của chúng ta. Còn những ứng dụng cho phép tăng tốc độ đọc của bạn bằng cách hiển thị một chuỗi các chữ chạy cùng một lúc thì sao? Người sáng lập chúng nói rằng “chỉ 20% thời gian của người đọc được dành cho việc xử lý nội dung, trong khi 80% thời gian là dành cho việc di chuyển đôi mắt”. Tuy nhiên, có một điều không hợp lý trong logic này, chúng ta không ngừng suy nghĩ khi mắt của chúng ta di chuyển, do đó, 100% thời gian chúng ta dành để xử lý nội dung, trong khi mắt chỉ di chuyển 10% thời gian. Hơn thế nữa, khi tốc độ đọc tăng, khả năng đọc hiểu sẽ giảm xuống. Vì vậy, tốc độ đọc nhanh chỉ có ích khi mục tiêu chỉ giống như quét văn bản mà thôi. Điều này có nghĩa là khi chúng ta đọc sẽ không thể lấy thông tin, như thế thì đọc để làm gì ?

Woody Allen từng nói: “Tôi đã tham gia khóa học đọc tốc độ, nơi bạn dịch chuyển ngón tay xuống giữa trang và đọc Chiến tranh và Hòa bình trong vòng 20 phút. Nó nói về nước Nga”.

Tôi không phản đối việc ai đó đọc 100 cuốn sách trong một năm – nếu đó là khả năng đọc tự nhiên của bạn. Mọi người có tốc độ đọc và mức độ hiểu khác nhau, cũng như sách không phải quyển nào cũng nên đọc. Mặc dù đọc nhiều là điểm chung của những người thành công, họ thường có xu hướng tò mò về thế giới họ đang sống. Tuy nhiên, vấn đề ở đây không phải họ đọc được bao nhiêu quyển sách mà là họ đọc như thế nào.

Tại sao chúng ta đọc ?

Xem xét ba loại đọc:

Đọc thụ động: như khi bạn lướt web, mạng xã hội, bạn đọc báo…một thông tin hay một điều gì đó đập ngay vào mắt khiến bạn tiếp thu một cách thụ động.

Đọc thực tế: Đọc cho một mục đích nào đó. Bạn đọc vì bạn muốn, bạn cần, hay học cái gì đó ở trường học, đại học hoặc để cải thiện bản thân.

Đọc vì sở thích: Bạn đọc vì bạn muốn chứ không phải chỉ vì cảm thấy nên đọc: một bài báo, một cuốn tiểu thuyết, một cuốn tự truyện…

Khi bạn bị cuốn vào sách, bạn có thể đọc ngay cả khi ăn, trong bồn tắm, trên băng ghế công viên, đứng trên tàu điện ngầm chỉ để ngấu nghiến một cốt truyện, một lý thuyết hay một phương pháp trong cuốn sách đó. Bạn nghĩ “ồ! nó dành cho mình” và rồi chìm đắm trong những con chữ đến quên cả xung quanh.

Đọc sách kéo dài sự chú ý, mở rộng vốn từ vựng và giúp chúng ta tích trữ được cả mỏ vàng thông tin. Nhưng nếu chúng ta đọc chỉ vì nhiệm vụ, mọi thứ đọc được sẽ hoàn toàn biến mất, giống như khi chúng ta thi xong và rồi quên sạch những điều đã cố nhồi nhét trước đó.

Sách self-help chỉ hữu ích khi chúng ta thực hiện sau khi đọc chúng. Tất cả các phương pháp sẽ chẳng có ích gì nếu chúng ta không sử dụng đúng cách. Elon Musk và những người khác thành công trong việc đọc sách là bởi vì họ không cố bơi trong những con chữ chỉ để đọc bằng hết cuốn sách, thay vào đó họ đọc có mục đích và áp dụng việc học tập đó trong hoàn cảnh nghề nghiệp.

Trong trường hợp bạn chọn chất lượng hơn số lượng, dưới đây là một vài mẹo có thể giúp bạn tìm những cuốn sách phù hợp:

Hãy thử các tác phẩm kinh điển

Hãy thử bỏ sách self- help xuống. Hầu hết các cuốn sách đều được dựa theo của một số tác phẩm kinh điển. Hãy chọn chủ đề mà bạn quan tâm nhất, đọc một cách cẩn thận sẽ giúp bạn phát triển hơn.

Đừng quá khó khăn với việc đọc

Có nhiều ý kiến cho rằng một số cuốn sách chỉ thích hợp đọc vào một thời điểm hoặc một không gian nào đó. Hãy cảm thấy đọc sách như một đặc quyền, bạn tự cho phép mình được chọn lựa và đọc những gì bạn yêu thích từ thể loại cho đến tác giả. Cuộc sống này quá ngắn, tại sao cứ phải buộc mình làm theo những khuôn khổ gò bó cũ rích đó nếu bạn không thực sự muốn vậy?

Đọc có chọn lọc

Sẽ có một số cuốn sách hữu ích với cuộc sống của bạn. Vậy là được rồi. Thử tìm cho bản thân một lựa chọn phù hợp. Đi sâu vào một chủ đề bạn thích sẽ giúp ích cho bạn nhiều hơn là đọc qua đủ thể loại. Bạn không có nghĩa vụ phải mua một cuốn tiểu thuyết chỉ vì nó nằm trong danh sách những cuốn bán chạy nhất. Hãy đọc những sách có liên quan và quan trọng đối với bạn.

Đọc lại

Mỗi lần đọc lại những cuốn sách cũ, tôi nhận ra có một cái gì đó mới mẻ. Nếu bạn đang cố gắng mở rộng kiến ​​thức của mình ở một lĩnh vực nhất định, việc đọc lại nội dung nào đó sẽ giúp bạn ghi nhớ tốt, truyền cảm hứng và tác động mạnh mẽ hơn việc đọc những cuốn sách mới với cùng một nội dung. Chính vì vậy mà Naval Ravikantli, CEO kiêm nhà đồng sáng lập AngelList – trang web dành cho những nhà khởi nghiệp Mỹ đã nói: “Tôi không muốn đọc mọi thứ. Tôi chỉ muốn đọc lại 100 cuốn sách tuyệt vời nhất”.

Ghi chép

Việc ghi chú theo cách thủ công giúp lưu lại thông tin tốt hơn. Nếu bạn đọc cuốn sách của mình (không mượn) hãy tự cho phép mình ghi chú hay highlight những điều bạn thấy tâm đắc hay đáng lưu tâm. Điều này giúp bạn xử lý và ghi nhớ nội dung tốt hơn.

Tham gia câu lạc bộ sách

Tham gia một câu lạc bộ sách cũng mang lại nhiều niềm vui. Bạn vừa đọc vừa có thể nghe ý kiến ​​của người khác, cùng bình luận và kết bạn với những người có cùng sở thích về sách. Những điều này thật thú vị!

Suy nghĩ cuối cùng

Trong cuốn Bird by bird, Anne Lamott viết: “Đối với một số người, sách cũng quan trọng như hầu hết mọi thứ khác trên trái đất này. Điều kỳ diệu là ở chỗ từ những mảnh giấy nhỏ, phẳng và cứng này lại mở ra bao thế giới mới lạ, hát ca với bạn, thoải mái, yên tĩnh ,đầy kích thích. Sách giúp chúng ta hiểu chúng ta là ai và cách chúng ta hành xử. Sách cho ta biết cộng đồng và tình bạn có ý nghĩa gì; chỉ ta cách sống và chết”.

Đọc sách như một phép nhiệm màu, là dịch chuyển , là thần giao cách cảm. Nó cho phép chúng ta đi lang thang qua không gian và thời gian, qua đại dương và lục địa; cho phép chúng ta chọn bộ não của những người vĩ đại nhất; tiếp cận sự khôn ngoan của quá khứ và nhìn thấy tương lai.

Vì vậy không nên đo lường giá trị của người khác bằng việc xem họ làm được bao nhiêu, đọc nhiều hay không đọc sách. Đọc sách cũng là “thưởng thức” sách, đọc chậm và đọc kỹ. Đừng đọc chỉ để làm cho bản thân thành công, đọc để làm cho mình hạnh phúc.

Nguồn: cafef.vn

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty DELETE@

Post by LDN Sun Mar 12, 2023 6:14 am

Người thành công luôn có thói quen đọc sách, bạn có biết vì sao không?

Bafu.edu...

(VOH) – Sách mang lại cho chúng ta nguồn kiến thức vô tận, đọc một quyển sách một thế giới mới như được mở ra với vô số điều mà con người khao khát được khám phá.
Quảng cáo

Sách chính là tinh hoa của nhân loại, chứa đựng một kho tàng kiến thức khổng lồ mà bất cứ ai cũng muốn chinh phục. Mỗi một cuốn sách hay là một chiếc chìa khóa đưa chúng ta đến thành công và thậm chí có thể thay đổi cả cuộc đời một con người. Chính những mục đích tốt đẹp mà sách mang lại nên trong cuộc sống có rất nhiều câu nói, châm ngôn dùng để ca ngợi và khuyến khích đọc sách. Hãy cùng đọc những câu nói hay về sách dưới đây và ngẫm nghĩ để hiểu rõ hơn nhé!

Những câu nói hay về sách kinh điển
1. “Vào khoảnh khắc mà chúng ta quyết thuyết phục đứa trẻ, bất cứ đứa trẻ nào, bước qua bậc thềm ấy, bậc thềm màu nhiệm dẫn vào thư viện, ta thay đổi cuộc sống của nó mãi mãi, theo cách tốt đẹp hơn.” – Barack Obama

2. “Việc đọc rất quan trọng. Nếu bạn biết cách đọc, cả thế giới sẽ mở ra cho bạn.” – Barack Obama

3. “Chúng ta là ai, mỗi người trong chúng ta là ai nếu không phải tổ hợp của kinh nghiệm, thông tin, những cuốn sách chúng ta đã đọc, những điều chúng ta đã tưởng tượng ra?.” – Italo Valvino

4. “Một cuốn sách thực sự hay nên đọc trong tuổi trẻ, rồi đọc lại khi đã trưởng thành, và một nửa lúc tuổi già, giống như một tòa nhà đẹp nên được chiêm ngưỡng trong ánh bình minh, nắng trưa và ánh trăng.” – Robertson Davies

VOH-cau-noi-hay-ve-sach-1

5. “Cuốn sách tốt nhất cho bạn là cuốn sách nói nhiều nhất với bạn vào lúc bạn đọc nói. Tôi không nói tới cuốn sách cho bạn nhiều bài học nhất mà là cuốn sách nuôi dưỡng tâm hồn bạn. Và điều đó phụ thuộc vào tuổi tác, trải nghiệm, nhu cầu về tâm lý và tinh thần.” – Robertson Davies

6. “Tôi đọc lòi cả mắt và vẫn không đọc được tới một nửa… người ta càng đọc nhiều, người ta càng thấy còn nhiều điều cần phải đọc.” – John Adams

7. “Đừng bao giờ cho mượn sách – chưa ai từng trả lại chúng; những cuốn sách duy nhất tôi có trong thư viện của mình là những cuốn người khác cho tôi mượn.” – Anatole France

8. “Chính từ sách mà những người khôn ngoan tìm được sự an ủi khỏi những rắc rối của cuộc đời.” – Victor Hugo

9. “Số lượng sách cứ tiếp tục lớn dần lên và ta có thể dự đoán rằng rồi sẽ đến lúc học được từ sách cũng khó như học toàn bộ vũ trụ. Rồi tìm kiếm từng chút sự thật ẩn dấu trong tự nhiên cũng sẽ thuận tiện như tìm nó giữa vô vàn chuồng sách.” – Denis Diderot

10. “Đọc sách hay cũng giống như trò chuyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.” – Rene Descartes

11. “Tất cả những gì con người làm, nghĩ hoặc trở thành: được bảo tồn một cách kỳ diệu trên những trang sách.” – Thomas Carlyle

12. “Chúng ta sẽ trở thành gì phụ thuộc vào điều chúng ta đọc sau khi các thầy cô giáo đã xong việc với chúng ta. Trường học vĩ đại nhất chính là sách vở.” – Thomas Carlyle

13. “Sách có thể ít đi một chút, nhưng phải tốt đẹp hơn. Không nên đặt một cuốn sách tầm thường lên giá sách.” – N.Ôxtơrốpxki

14. “Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà hàng xóm, thắp nó trong nhà ra, đem nó truyền cho người khác và nó trở thành tài sản của tất cả mọi người.” – Voltaire

15. “Bạn biết rằng một cuốn sách hay trên giá sách là một người bạn dù quay lưng lại nhưng vẫn là bạn tốt.” – Khuyết Danh

16. “Sách hay, cũng như bạn tốt, ít và được lựa chọn; chọn lựa càng nhiều, thưởng thức càng nhiều.” – Louis May Alcott

17. “Lí tưởng là cuốn sách không có trật tự gì cả và người đọc phải tự khám phá ra cho mình”.” – Mark Twain

18. “Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.” – Henry David Thoreau

19. “Bạn biết rằng bạn đã đọc một cuốn sách hay khi bạn giở đến trang cuối cùng và cảm thấy như mình vừa chia tay một người bạn.” – Khuyết Danh

20. “Một cuốn sách hay thực sự hay dạy tôi nhiều điều hơn là đọc nó, Tôi phải nhanh chóng đặt nó xuống, bắt đầu sống theo những điều nó chỉ dẫn. Điều tôi bắt đầu bằng cách đọc, tôi phải kết thúc bằng hành động”, Henry David Thoreau

Những câu nói hay về việc đọc sách
1. “Đọc sách có thể không giàu, nhưng không đọc, chắc chắn nghèo!” (Sưu tầm)

2. “Bạn cô đơn ư? Đừng lo lắng. Mọi cuốn sách đều sẵn sàng kết thân với bạn!” (Sưu tầm)

3. “Có hai cách để hạnh phúc. Một là dùng tiền mua những thứ có thể khiến bạn hạnh phúc. Hai là dùng tri thức để biết hạnh phúc với những gì mình đang có.” (Sưu tầm)

4. “Một vài người nói họ chỉ sống có một lần trong đời. Đó là vì họ đã không đọc sách.” (Sưu tầm)

5. “Đọc sách cho tâm trí cũng cần như thể dục cho cơ thể.” (Sưu tầm)

Những câu nói hay trong sách của nhà văn, tác giả Việt
1. “Khi bạn không làm được điều bạn muốn làm, có lẽ bạn cũng cảm thấy tự do bị tước đoạt.” (trích “Tôi Là Bêtô” – Nguyễn Nhật Ánh)

2.  “Hai bàn tay của ta giống như những người bạn thân, luôn chia sẻ với ta mọi vui buồn trong cuộc sống. Bạn cứ ngẫm mà xem, có phải khi bạn mừng rỡ hay phấn khích, hai bàn tay hăng hái vỗ vào nhau để nhân đôi niềm vui trong lòng bạn. Khi bạn khóc, hai bàn tay lại thay phiên nhau kiên trì lau khô những giọt lệ lăn tròn trên gò má bạn. Hai bàn tay lúc đó giống như những chú chim vàng anh trong cổ tích, cần mẫn tha từng hạt cườm long lanh trên mặt bạn đem gởi vào nắng, vào gió, vào mưa để một chốc sau sự tươi tỉnh lại nhuộm hồng gương mặt mới đây còn tái xanh của bạn.” (trích “Tôi Thấy Hoa Vàng Trên Cỏ Xanh” – Nguyễn Nhật Ánh)

3. “Có những vẻ đẹp bạn không nhận ra cho đến khi đã đánh mất nó, không phải như người yêu đã chia tay, không phải như nụ hoa đã tàn héo, mà như một phần cuộc đời bạn, không gì thay thế nổi.” (trích “Hãy Tìm Tôi Giữa Cánh Đồng” – Đặng Nguyễn Đông Vy)

4. “Trải qua bấy nhiêu chuyện, ta mới phát hiện chết thực ra rất dễ dàng, sống mới là khó khăn. Có thể sống đến cuối cùng mới là khó nhất.” (trích Từng thề ước – Đồng Hoa)

5. “Hãy cứ nhớ rằng độc thân là một đặc ân, cho nên phải tận hưởng lâu nhất có thể, bạn nhé.” (trích “Buồn Làm Sao Buông” – Anh Khang)

6. “Muốn “thấu” một người, hãy đứng trong hoàn cảnh của người ta, như thế mới hiểu được chuyện gì đang xảy ra, để cảm thông và sẻ chia với họ”. (trích “Thương Nhau Để Đó” – Hamlet Trương và Iris Cao)

7. “Quá khứ là để chúng ta nhớ về chứ không phải là để sống chung với nó.” (trích “Thời Gian Để Yêu” – Hamlet Trương)

8. “Khi mọi chuyện qua đi, chúng ta nhìn lại, chợt nhận thấy bản thân mình trong giai đoạn ấy, thật dại khờ, xuẩn ngốc đến bao nhiêu.” (“Lưng Chừng Cô Đơn” – Nguyễn Ngọc Thạch)

9. “Dù có thế nào cũng phải cố gắng SỐNG thật ý nghĩa, bởi lẽ cuộc đời là một quyển sách đặc biệt chẳng ai biết trước mục lục cả.” (trích “Có Ai Giữ Giùm Những Lãng Quên” – Jun Phạm)

10. “Cái gì là của mình, số phận sẽ có cách đưa nó trở về mà bản thân mình có nỗ lực chối bỏ cũng không được.” (trích “Thương Nhau Để Đó” – Hamlet Trương)

Hãy dành bất cứ thời gian rảnh nào của bạn để đọc sách vì chúng không chỉ giúp bạn thư giãn mà còn mở ra trong một bạn mới thế giới khác. Nghiền ngẫm những trang sách sẽ tăng thêm phần tri thức của bản thân, giúp bạn khám phá thêm nhiều kiến thức bổ ích và mở đường đến thành công. Do đó, sách luôn được xem là người bạn quý giá của nhân loại và mỗi chúng ta cần có thói quen đọc sách.

Nguồn: https://voh.com.vn/

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sun Mar 12, 2023 6:27 am

Báo Pháp luật Việt Nam điện tử

Lười đọc sách khiến tâm hồn giới trẻ dần khô cứng, vô cảm


(PLVN) - Đọc sách, một mặt là phương thức học tập rất hữu hiệu, mặt khác cũng là cách giải trí rất nhẹ nhàng. Nhưng hiện nay, đọc sách gần như là khái niệm khá xa xỉ với giới trẻ. Lười đọc sách, giới trẻ dần bị khô cứng tâm hồn, vô cảm hóa.

Lười đọc sách khiến giới trẻ dần khô cứng tâm hồn, thiếu hụt kiến thức

Đọc sách thì ít, “chém gió” thì nhiều
Theo thống kê, người Việt đọc trung bình 0,8 cuốn sách/người/năm (tức là chưa được 1 cuốn sách). Tỉ lệ sách bình quân đầu người tại các thư viện công cộng là 0,38 cuốn. Báo cáo Vụ Thư Viện, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch, tỷ lệ người Việt hoàn toàn không đọc sách chiếm 26%, thỉnh thoảng mới đọc sách chiếm đến 44% dân số.

Con số thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực như: Singapore: 14 cuốn/năm, Malaysia: 10 cuốn/năm, Nhật là 20 cuốn… Những dân tộc hàng đầu thế giới như: Đức, Pháp, Isreal, một người dân đọc từ 20 cuốn sách/năm.

Ông Nguyễn Quang Thạch - người khởi xướng dự án “Sách hóa nông thôn” cho biết về một cuộc khảo sát cá nhân khác: “Năm 2011 tôi khảo sát 530 phiếu phỏng vấn, trong đó 253 phiếu dành cho nông dân thì câu trả lời về số lượng sách đọc là 0. Với trẻ em, số liệu chênh lệch đọc với thị trấn đến mức tệ hại. Ở các trường vùng thuần nông, các em đọc 0,2- 0,8 cuốn/năm (ngoài SGK), ở thị trấn, con số này là 5 cuốn/năm”.

Không ngại chi 63 nghìn tỷ đồng uống rượu bia mỗi năm, nhưng người Việt Nam lại chỉ dám bỏ 2 nghìn tỷ đồng mua sách, không bằng số lẻ. Giáo sư Lê Văn Lan cho hay: “Người ta vẫn ví sách là nguồn tri thức vô giá của nhân loại, nhưng phần nhiều giới trẻ không đọc để lĩnh hội tinh hoa đó, mà lại mê “chém gió” ở hàng bia”.

Khảo sát tại thư viện các trường ĐH lớn của Hà Nội như: ĐH Sư phạm 1, ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn… có thể nhận thấy ngay tình trạng thưa vắng người đọc. Thư viện rộng rãi, khang trang, sách thì nhiều mà người đọc thì ít.

Theo khảo sát 100 SV của Trường ĐH Tự nhiên ĐH Quốc gia Hà Nội thì chỉ có khoảng 30% SV tiếp cận thông tin từ sách, số còn lại chủ yếu sử dụng mạng internet. Tương tự ở Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cũng chỉ có khoảng 25% SV thường xuyên đọc sách. Và có lẽ không đến 1% số sinh viên biết Thư viện Quốc gia ở đâu. Có một thực tế là nơi đây cũng chung số phận như thư viện ở các trường đại học.

Một thực tế là, nếu có đọc sách thì loại sách được giới trẻ đọc nhiều nhất là: truyện tranh (60%), kế đến là truyện ngắn (50%), truyện dịch (35%), tiểu thuyết trong nước (30%). Lướt qua con phố sách Đinh Lễ, Nguyễn Xí (Hà Nội) có thể thấy hàng loạt các tác giả như Tào Đình, Tiên Chanh, Cỏ Mạn, Trang Trang… được các bạn trẻ săn đón khi sách của họ được xuất bản.

Rất hiếm người để tâm tới: “Thép đã tôi thế đấy”, “Những người khốn khổ”, “Nhà thờ Đức Bà Paris”... từng là sách “gối đầu giường” của nhiều thế hệ. Với họ, những quyển sách “gối đầu giường” đọc nhức đầu, mất nhiều tư duy, “hại não”, mất thời gian trong khi những tiểu thuyết dễ “tiêu hóa” hơn.

Trong một chương trình “Chiếc nón kỳ diệu” của VTV3 có chủ đề “Văn học thế giới”, bốn tên sách thuộc loại kinh điển được đưa ra để đố là Tây Du Ký, Ông già và biển cả, Người mẹ và Thần thoại Hy Lạp, khi người dẫn chương trình hỏi bạn đã đọc cuốn sách ấy chưa, thì những người chơi đều trả lời rằng... chưa có điều kiện đọc? Hỏi tên tác giả cũng chịu. Ở chương trình “Đường lên đỉnh Olympia”, trong phần “vượt chướng ngại vật” có câu hỏi: Tác giả Bỉ Vỏ là ai? Thì các học sinh dự thi cũng không trả lời được.

Người Việt hiện dành khoảng 2,5 tiếng mỗi ngày trên Facebook, nhiều hơn 1 giờ so với các mạng xã hội khác, gấp đôi thời gian dành để xem tivi và gấp nhiều lần thời gian dành để đọc sách. Sẽ không đáng lo nếu người dân dùng facebook để kết nối, lĩnh hội thông tin.


Các cuốn sách đang chờ người đọc
Nhưng điều đáng buồn là cư dân mạng dùng công cụ này để học hỏi, tìm kiếm thông tin thì ít, mà để cổ súy phong trào “ném đá”, từ trong nhà ra thế giới, tung tin nhảm, thậm chí làm những trò “trẻ trâu” như thách đố cả IS chỉ nhằm mục đích câu like... thì nhiều. Rất nhiều câu chuyện đau lòng từ thế giới ảo nhưng hậu quả thật đã xảy ra. Đánh nhau vì thách nhau trên facebook, tự tử vì bị bôi nhọ, xúc phạm trên face, bị phạt tiền, thậm chí vướng vào lao lý vì tung tin nhảm.

“Lớp trẻ bây giờ hẫng hụt về kiến thức”

Giảng viên, TS Ngô Văn Giá (ĐH Văn hóa Hà Nội) cho biết: Sinh viên của ông là dân văn hóa, báo chí, văn học chuyên ngành, nhưng phần lớn cũng rất lười đọc sách. Một trong những điều thầy thường phải nhắc nhở học trò là đọc, đọc thật nhiều và đọc có lựa chọn. Th.s Phan Quốc Hải (ĐH Khoa học Huế) cho rằng: “Sinh viên hiện nay rất ít đọc sách, thậm chí có một bộ phận không nhỏ không biết đến khái niệm đọc sách là gì.

Một bộ phận lớn sinh viên hiện nay đọc sách rất thụ động, nghĩa là họ chỉ đọc khi có yêu cầu của giảng viên để thuyết trình, làm bài tập nhóm, thảo luận, kiểm tra... hoặc đọc theo kiểu phong trào, nói chung là để đối phó và phục vụ cho việc học một cách tức thời, họ chưa xem đọc sách như là công việc chính của việc học tập theo hệ tín chỉ như hiện nay”.

Nhà thơ Thái Thăng Long phiền lòng: “Văn hóa đọc bị phân tán là do nhiều kênh thông tin lấn át... Lớp trẻ bây giờ hẫng hụt về kiến thức do quá lười đọc. Cũng rất hiếm những người đi tìm những cuốn sách cũ, cổ về nghiên cứu, ngay cả sử nước nhà họ cũng tậm tịt.

Chính một phần tôi cho rằng công tác giáo dục thẩm mỹ ở các trường đại học còn rất kém trong lĩnh vực văn học, mỹ thuật và âm nhạc. Một khi cảm thụ về văn học kém sẽ dẫn đến nhận thức kém, ứng xử kém. Chúng ta không thể đòi hỏi hơn ở con cháu mình, cũng không thể trách móc chúng, mà cần trách giáo dục trong nhà trường hiện nay mang tính thực dụng quá”.

Sách là những tác phẩm trí tuệ của con người được tổng kết, đúc rút qua thời gian và sự phát triển của nhân loại. Việc lười đọc, ít đọc sách sẽ dẫn đến sự thiếu hụt tri thức đối với tầng lớp học sinh, sinh viên. Việc dành thời gian quá ít cho việc đọc đã khiến họ không có chiều sâu tri thức, lười vận động, thiếu năng lực nghiên cứu tìm tòi, đây là một hiểm họa cản trở sự phát triển của xã hội tri thức. Lười đọc, lười nghiên cứu dẫn tới một số cán bộ, công chức mất dần sự sáng tạo, ngại đổi mới, năng lực chuyên môn, khả năng lý luận hạn chế không thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

Lười đọc sách nên vốn từ ngữ của các em rất nghèo nàn, tố chất văn chương ngày càng kém. Nhiều câu văn ngô nghê, cẩu thả, trích dẫn tác phẩm sai lệch, râu ông nọ cắm cằm bà kia... Ngay cả trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, các em cũng nói chuyện cộc lốc, “đệm” tiếng Anh, tiếng Việt tùy tiện.

Đối với sinh viên, họ thường xuyên mắc lỗi bởi việc liên tục cập nhật các thông tin trên mạng xã hội sẽ khiến đa số giới trẻ thành thạo với ngôn ngữ mạng. Vốn là văn nói thậm chí bị bẻ cong đi so với từ ngữ chuẩn. Ngôn ngữ này sẽ rất đa dạng và xâm nhập vào văn viết với vô vàn lỗi ngữ pháp cũng như lỗi diễn đạt trong học tập và công việc.

Lười đọc sách khiến cho tâm hồn con người trơ cứng, vô cảm, kiêu ngạo và tự mãn… được bắt nguồn từ sự khô cằn tâm hồn con người. Mà sách chính là cơn mưa tưới vào sự khô cằn ấy. “Không có sách thì không có tri thức...”, câu ấy luôn luôn đúng với mọi thời đại.

Để tạo văn hóa đọc, cha mẹ biết định hướng cho con cái mình ngoài việc học tập tốt, tham gia tích cực các hoạt động xã hội thì cần hướng dẫn con đọc gì, xem gì, nghe gì. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng từng bước giúp đứa trẻ hình thành nhân cách sống của chúng. Các gia đình tạo 1 tủ sách trong nhà, mỗi ngày kể 1 câu chuyện hay từ sách cho con trẻ.

Mỗi tuần 1 thành viên trong nhà nói về 1 cuốn sách mình tâm đắc. Dắt trẻ đi nhà sách ít nhất 1 tháng 1 lần. Tặng “sách hay” mỗi tháng khi con trẻ làm được điều tốt. Tạo môi trường tốt cho việc đọc, khuyến khích đọc, bắt đầu từ 1 giá sách, tạo thành góc đọc sách, 1 tủ sách gia đình, phòng đọc sách.

Yếu tố thứ hai không kém phần quan trọng chính là nhà trường. Ở mỗi lớp học, cấp học, các thầy, cô giáo biết chỉ cho mỗi học sinh của mình phải tìm đọc các tác phẩm kinh điển ấy. Từ đó, tạo thành “phong trào”, phát triển thành một giá trị cho những ai đã tìm đọc các cuốn sách ấy. Đồng thời, ông bà, bố mẹ phải làm gương cho con cháu về việc đọc, nghiên cứu tại gia đình.

Bảo Châu

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sun Mar 12, 2023 6:35 am

[Bookademy] Hãy Đọc Sách Dẫu Bạn Đã Thành Công Hay Chưa

Anna Lee - ybox

Bạn hãy tưởng tượng thế này nhé, đọc sách giống như việc quang mẻ lưới xuống sông. Đọc xong một cuốn sách, dù không ghi nhớ được tất cả, ta vẫn có thể chắt lọc kiến thức, mở mang hiểu biết. Tương tự, dù không múc được nước sông khi kéo lưới, nhưng thứ ta nhận được lại là những mẻ tôm quý giá. Và dẫu cho lưới của ta không có nhiều tôm cá, nó chắc chắn sẽ sạch hơn sau mỗi lần kéo.

Sách là tri thức, là kho tàng quý báu của nhân loại. Dẫu ai trong chúng ta cũng biết điều này, nhưng sử dụng tri thức đó như thế nào lại là chuyện của mỗi người. Con người ta không chỉ đọc để đơn thuần mở mang kiến thức, mà còn để học hỏi làm giàu vốn sống cho mình, để thành công hơn trong cuộc đời. Tuy vậy, cũng có những thành công đến với ta không nhờ vào việc đọc sách và hơn thế nữa, nếu chúng ta đã đạt được thành công thì có cần tìm đến sách hay không?

Thứ nhất, phải khẳng định rằng đọc sách là một trong những con đường dẫn đến thành công. Tác giả Tom Corley của cuốn sách “Thói quen của người giàu” có viết rằng, 67% những người giàu thường dành ít nhất 1 giờ để đọc sách mỗi ngày. Trong khi đó, chỉ 23% người nghèo có thói quen này. Theo báo cáo của Steve Siebold, gần 1.200 người giàu có nhất thế giới thừa nhận, họ có chung một thói quen: Đọc sách bất kỳ khi nào có thể.

Tỷ phú Warren Buffett, người xếp hạng 41 trong danh sách những người giàu có nhất lịch sử loài người, ước tính rằng 80% thời gian ngày làm việc của ông được dành để đọc và suy ngẫm. Ông nổi tiếng với câu nói: "Tôi thường ngồi trong văn phòng của mình và đọc hầu như tất cả mọi ngày”. Bởi theo ông đọc sách thúc đẩy sự thi đua để đạt được thành công, giúp nảy sinh ý tưởng và thư giãn sau một ngày làm việc mệt mỏi. Khi được hỏi về chìa khóa của sự thành công, Buffett đã chỉ vào một chồng sách và nói: “Đọc 500 trang sách này mỗi ngày sẽ giúp bạn thành công. Nó gần giống việc tích luỹ tiền để tiết kiệm và nhận lãi. Mọi người đều có thể làm điều đó, nhưng không phải ai cũng thực hiện”.

Bill Gates cũng có chung sở thích đọc sách như Warren Buffett, thậm chí ông còn có thư viện riêng lên tới hàng ngàn mét vuông để lưu giữ những cuốn sách yêu thích. "Tôi thực sự đã có rất nhiều ước mơ khi tôi còn là một đứa trẻ, và không ít trong số đó đã trở thành hiện thực chính là nhờ tôi đã có cơ hội đọc rất nhiều”. Với ông, đọc là cách để mỗi người khám phá bản thân mình và va chạm với thế giới thông qua những trang sách, nó giúp ta trưởng thành hơn, học từ thất bại của những người đi trước là cách học khôn ngoan nhất. Ông luôn duy trì thói quen đọc sách mỗi ngày, kể cả những khi bận rộn nhất, trung bình mỗi năm ông đọc khoảng 50 cuốn sách.

Tuy nhiên, đọc sách chỉ là một con đường chứ không phải là con đường duy nhất. Không phải lúc nào đọc nhiều sách cũng đem đến thành công, và không phải người thành công nào cũng đạt được kết quả tích cực nhờ việc đọc sách. Thực tế đã chứng minh điều đó. Có nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới đã thừa nhận rằng họ đọc không quá hai cuốn sách một năm, có thể kể đến như Donald Trump, Kanye West, Meghan Trainor. Nhưng cũng chính Donald Trump từng nói rằng, ông sẽ không thể có được thành công lớn như hôm nay nếu ông không đọc quyển “The Power of Positive Thinking” (Sức mạnh của việc suy nghĩ tích cực). Kể từ năm 1987 đến nay, ông đã viết được ít nhất 15 cuốn sách: Crippled America, Think Like a Champion, How to Get Rich, Never Give Up…Và như các bạn đã biết, Donald Trump ngày nay là đương kim Tổng thống thứ 45 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, tỷ phú bất động sản, ngôi sao của truyền hình nước Mỹ.

Đó là ở phía bên kia bán cầu, vậy châu Á của chúng ta thì sao? Tôi muốn nói đến Jackma, ông chủ của Alibaba, một trong những người rất thành công và có tầm ảnh hưởng. Giới trẻ Trung Quốc ai ai cũng tôn kinh gọi ông một tiếng là thầy và luôn muốn học theo con đường thành công của thầy Jack. Ông tự nhận mình là người ít đọc nhưng lại có cả danh sách dài những cuốn sách khuyên đọc bởi Jackma xuất hiện trên báo chí. Năm 2012, Jack tổ chức một buổi diễn thuyết nói đến việc “Có thành công hay không, không liên quan đến việc đọc sách”. Tuy nhiên trong buổi diễn thuyết ấy, ông có phát biểu rằng: “Thành công hay không ít nhiều gì đều không liên quan đến việc đọc sách, nhưng lại liên quan đến việc sau khi thành công, nếu người thành công không đọc sách thì nhất định sẽ tuột dốc, hơn nữa còn tuột dốc rất kinh khủng”. Thực ra, Jack không hề mâu thuẫn như nhiều người vẫn nói về những lời khuyên của ông, bởi nó rất có giá trị về mặt thực tiễn. Hãy đọc sách để hiểu và làm chứ đừng chỉ đọc sách theo trào lưu hay vì người ta bảo đọc sách là tốt. Chỉ riêng việc đọc sách không bao giờ giúp bạn thành công hay giàu có. Bạn phải tìm được những cuốn sách tốt, học cách đọc và hiểu những gì sách nói, song không quên điều quan trọng nhất là phải hành động, lao động. Thế mới có thể đạt được những gì mình muốn.

Có thể thấy, không có một công thức chung nào dẫn đến thành công đúng với mọi đối tượng ở những hoàn cảnh khác nhau. Để tối đa hóa khả năng đạt được thành công, bạn nên bắt đầu với nhiều con đường, và sách là một lựa chọn sáng suốt không thể bỏ qua.

Cái khó của thời đại bây giờ không phải vì không có sách mà là vì có quá nhiều sách. Ngập trong một thế giới sách như vậy câu hỏi làm sao lựa chọn được những cuốn sách thật phù hợp và giá trị với bản thân cũng là bài toán nan giải. Sau đây tôi xin chia sẻ cách mình chọn sách để đọc, đây là cách tôi tự đúc rút ra trong quá trình đọc cũng như tham khảo từ nhiều tác giả khác.

Tôi muốn bắt đầu từ những người chưa có thói quen đọc sách đều đặn. Việc đầu tiên bạn cần làm đó là chọn ra cuốn sách phù hợp dựa trên các tiêu chí: nội dung cuốn sách, phong cách hành văn, giá trị mà nó mang lại, và điều quan trọng nhất đó là bạn phải thấy có hứng thú với nó. Bạn không cần vội vàng mỗi ngày đọc hết một cuốn sách 300 trang vì bạn sẽ dừng đọc sách ngay vào ngày sau đó. Hãy bắt đầu từ những bước nhỏ nhất theo phương pháp Kaizen của người Nhật, mỗi ngày đọc một trang sách. Liên tục duy trì thói quen này trong 21 ngày (theo nghiên cứu, một thói quen mới sẽ mất khoảng 21 ngày để thiết lập) và bạn sẽ thấy một sự cải thiện đáng ngạc nhiên về tốc độ đọc sách của mình. Sau đó, bạn nên tăng dần số trang sách đọc mỗi ngày, và tiếp tục quy trình mới. Tin tôi đi, rồi bạn sẽ thấy việc đọc sách dễ như uống nước!!!

Nếu bạn vẫn không thể tìm được cho mình những cuốn sách phù hợp thì có thể tham khảo trên Goodread một trang đọc sách rất uy tín trên toàn thế giới. Khả năng tiếng anh của bạn còn hạn chế thì cũng đừng lo lắng vì Việt Nam cũng có rất nhiều trang web hay về sách mà mình hay tham khảo như Bookademy, Bookaholic, Readstation. Điều thú vị ở các trang web này đó là ngoài các mục review về sách, họ còn cung cấp các bài viết khác như các mẹo đọc sách, list các sách nên đọc theo từng độ tuổi, từng mục đích khác nhau. Thậm chí bạn có thể vào trực tiếp trang chủ của nhà xuất bản hay các trang bán sách trực tuyến, bởi họ luôn cập nhật những đầu sách mới nhất, và tất nhiên cả những đầu sách bán chạy.

Câu nói yêu thích của tôi là: “Reading means breathing”. Chúc bạn thành công trong những dự định sắp tới. Nếu bạn chưa đạt được thành công thì hãy giữ thói quen đọc sách thường xuyên, vì điều đó có nghĩa là bạn đang đi trên con đường dẫn tới thành công.

Tác giả: Phương Anh - Bookademy

~

Ẩn danh
Đọc sách đúng cách

Nhiều người đọc hàng trăm quyển sách nhưng không biết vận dụng và vẫn thất bại, trong khi có người chỉ đọc một quyển sách cũng có thể thành công. Sách chỉ mang đến nội dung tinh thần phong phú, góc nhìn, suy nghĩ đa chiều, làm cho nội tâm chúng ta sâu sắc hơn, nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta thành công hơn, giỏi hơn những người ít đọc hoặc chỉ đọc những gì cảm thấy cần thiết. Đọc sách cũng mang đến cho tôi vốn từ vựng phong phú hơn, cách cư xử, cách sống và sự đồng cảm, chia sẻ nhiều hơn đối với người khác, nhưng đôi khi cũng mang đến cho chúng ta một tâm hồn đa cảm và có thể là nhạy cảm, nhiều suy nghĩ... Theo quan điểm của tôi, đọc sách là tốt, nhưng để thành công, kiến thức từ sách mang đến phải được kết hợp với sự trải nghiệm thực tế của bản thân, năng lực, đầu óc và một phần may mắn.

~
Ẩn danh
Người bạn quan trọng của tôi

Khi bản thân đọc nhiều, tôi mới cảm thấy mình lớn lên từng ngày. Ở thời điểm công nghệ 4.0 như ngày nay, các bản pdf hay các trang sách điện tử có tỷ lệ tăng lên đáng kể và được nhiều người yêu thích. Nhưng với tôi, sách bản mềm luôn có một điều gì đó hấp dẫn và hay ho hơn nhiều so với khi bạn đọc ở trên máy tính, điện thoại. Tôi thích chúng vì là của riêng mình, được tự tay chăm sóc và thích cảm giác được cầm trên tay một cuốn sách hay. Đối với tôi, ngoài gia đình, bạn bè, thì sách là người bạn không bao giờ bỏ mình mà ra đi. Mặc cho những sóng gió, mặc cho những thay đổi, chúng vẫn nằm trên kệ, đợi tôi về và cầm nó lên thưởng thức. Mỗi buổi sáng sớm vừa thưởng thức ly cà phê, vừa cầm một cuốn sách hay giữa đêm khuya tĩnh mịch vừa uống một ly nước ấm, vừa đọc một kiến thức mới, điều đó thật yên bình và hạnh phúc làm sao!

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Fri Mar 17, 2023 6:04 pm

TS Nguyễn Mạnh Hùng: Các doanh nhân cũng lười đọc sách như đa số người Việt, có vị sếp còn tâm sự "mấy năm nay anh có đọc sách đâu mà vẫn làm ăn phát đạt!"

Cafef...

10 năm không dùng thuốc Tây vẫn rất khỏe: Bạn có lặng người khi đọc "cẩm nang kỳ lạ" của TS Nguyễn Mạnh Hùng?

TS Nguyễn Mạnh Hùng: "Rất nhiều người đang ngủ sai giờ. Họ không biết đường tới nghĩa địa dần ngắn lại"
Không có chuyện một người không dành ra được 15 phút để đọc sách mỗi ngày. Ai chứng minh được không có 15 phút đọc sách mỗi ngày, tôi tặng 100 đôla. Tôi đang có 10 ngàn đôla sẵn sàng trả cho "những người không có thời gian đọc sách".

TS Nguyễn Mạnh Hùng: Các doanh nhân cũng lười đọc sách như đa số người Việt, có vị sếp còn tâm sự 

Đó là quan điểm của tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, người sáng lập ra công ty sách Thái Hà chia sẻ trong cuốn sách của mình. Bởi theo ông biết rất nhiều người nổi tiếng. Họ đi dạy, dẫn chương trình, quản lý vài công ty, viết báo... mà mỗi ngày vẫn dành được cả tiếng đọc sách báo.
Chờ xe bus hay chờ máy bay đếu hiếm thấy người Việt đọc sách

Ông Hùng cho rằng, Việt Nam chưa bao giờ được coi là nước có "văn hóa đọc". Ở nước ngoài, đi đâu người ta cũng mang sách theo. Đi du lịch, đi chơi, họ tranh thủ đọc bất cứ lúc nào. Uống cà phê, chờ xe buýt, đến trước giờ hẹn, họ đều đọc sách...

Theo chính ông quan sát tại các điểm công cộng, bến xe buýt Việt Nam cách đây vài năm để đếm người đọc sách. Có quá ít người đọc. "Mỗi lần đi du lịch, bạn có nghĩ đến việc phải đem theo sách không? Bạn cứ thử làm một cuộc kiểm tra nhỏ về ba vật đầu tiên bạn nghĩ đến khi đi du lịch là gì? Có bao nhiêu phần trăm người chọn sách trong đó?", ông Hùng đặt ra câu hỏi.

Ông cũng từng một ngày đi quan sát tại tất cả các bến xe buýt ở Hà Nội để có đánh giá sơ bộ về văn hóa đọc của người dân Hà Nội. Trong tất cả các bến xe buýt tại Hà Nội, tại tất cả những nơi ông đi qua, chỉ có 31 người đang đọc. 7/31 đang đọc sách. 5/31 đang đọc tờ quảng cáo. Số còn lại (19 người) đọc báo. Kết quả khiến nhà sáng lập Thái Hà Books phải ngỡ ngàng: Khi đợi xe buýt nói riêng và khi rảnh rỗi nói chung, người ta không biết tận dụng thời gian để đọc sách, khác xa các nước châu Âu, châu Mỹ, châu Úc ông đã đến.

Thêm một khảo sát khác là tại các sân bay. Trong một chuyến bay vào Tp.HCM, tại sân bay Nội Bài, doanh nhân này đã đếm được 15 người đang đọc sách, trong đó có 14 người là người nước ngoài. Trong chuyến bay quay về Hà Nội. Kết quả cũng không khác mấy. Tại sân bay Tân Sơn Nhất, ông đếm được 24 người đang đọc sách, trong đó có 22 người là người nước ngoài. Như vậy, những người Việt đi máy bay, theo ông Hùng tạm cho là có trình độ cao hơn, tri thức nhiều hơn những người Việt đi xe buýt, cũng không phải là chăm đọc sách.

Lãnh đạo cũng lười đọc sách

Không chỉ dừng lại ở quan sát, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng từng thực hiện điều tra qua phỏng vấn các nhà lãnh đạo và quản lý và kết quả như sau: Chỉ có 3/28 người (10,71%) ngày nào cũng đọc sách, nếu không quá bận. 15/28 có thói quen đi mua sách, ít nhất một tháng một lần (trực tiếp tại các nhà sách, nhờ người đi mua hộ hoặc đặt qua mạng, qua điện thoại).

Có một điều khiến ông Hùng rất bất ngờ: Một vị lãnh đạo khá thành đạt đã tâm sự thật với tôi rằng đã ít nhất ba năm nay anh không đọc bất cứ một cuốn sách nào. Anh nói rằng không cần đọc sách vì chỉ mất thời gian. Anh nói: Cả mấy năm nay anh có đọc sách đâu mà vẫn kinh doanh thành công, vẫn làm ăn phát đạt.

Theo kết quả điều tra của ông Hùng, 21/28 lãnh đạo thích và hay đọc sách chuyên ngành. Họ khẳng định ít đọc sách của các lĩnh vực khác. Chỉ có 7,75% những người được hỏi trả lời rằng họ vẫn đọc sách văn học, trong khi đó 78,57% khẳng định họ có đọc sách liên quan đến lãnh đạo. Tuy nhiên, 85,71% khẳng định họ chỉ đọc sách trong lĩnh vực này bằng tiếng Anh hoặc bản dịch nghiêm túc. Họ khẳng định không đọc những sách biên soạn lại vì theo họ phần lớn những sách này có nội dung không đúng nguyên tác và nhiều khi hiểu sai ý tác giả.

Qua kết quả điều tra cho thấy các nhà lãnh đạo không nằm ngoài tổng kết chung về văn hóa đọc của người Việt chúng ta: Ít đọc sách. Cũng theo nghiên cứu trên, khi có thời gian rảnh rỗi, các lãnh đạo dành thời gian vào các lĩnh vực giải trí theo thứ tự ưu tiên như sau: Gặp gỡ, chơi thể thao, đọc báo, xem ti vi, vào mạng, nghe nhạc, đi ăn uống. Vị trí của đọc sách trong thứ tự ưu tiên là thứ 14.

Cũng không thể không nói đến kết quả khác của cuộc điều phỏng vấn này: Nhóm các lãnh đạo thế hệ 7X đọc sách nhiều nhất. Vị trí tiếp theo thuộc về 8X. Sau đó là 6X. Các lãnh đạo nhóm lứa tuổi 7X, 8X thường đọc sách trên mạng, trong khi các lãnh đạo nhóm 6X, 5X thường mua sách quyển, sách in trên giấy về đọc. Tuyệt đại đa số các nhà lãnh đạo thế hệ này đều có thư viện sách tại nhà, thậm chí tại cả cơ quan.

Kết quả điều tra khiến Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng thoáng buồn bởi theo ông, trên thực tế, đọc sách không chỉ mang lại cho chúng ta kiến thức. Việc đọc sách đem đến cho chúng ta niềm vui, làm chúng ta thư giãn. Sách mang đến cho chúng ta cảm giác hồi hộp, làm chúng ta cười, giúp chúng ta quên đi những nỗi lo âu, xua tan bực dọc. Nếu chăm đọc sách, người lãnh đạo, giám đốc còn có thể tạo ảnh hưởng tốt đến cấp dưới, đến nhân viên. Nếu có thói quen đọc sách, các nhà lãnh đạo có thể truyền thói quen này cho những người trong gia đình, nhất là con cái của mình.

Đọc sách còn giúp chúng ta định hướng. Người đọc học hỏi được nhiều điều bổ ích, biết thêm nhiều thông tin mới. Việc đọc cũng đem đến niềm hứng khởi, làm cho chúng ta suy nghĩ về cuộc đời, ngẫm lại những gì ta đã làm trong quá khứ và những gì chuẩn bị làm trong tương lai.

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by LDN Sat Mar 25, 2023 3:52 pm

BÁO SÀI GÒN GIẢI PHÓNG

Người trẻ đọc sách: Thích ngắn, ngán dài, chuộng đơn giản

20/04/2016 10:56 (GMT+7)

Ở Nhật Bản, giới trẻ phần lớn thích truyện tranh và đó được gọi là văn hóa còn ở Việt Nam, những năm gần đây thống kê cho thấy giới trẻ lười đọc. Vậy sự thật, giới trẻ ngày nay lười đọc hay lười đọc dài? Những loại sách nào được đông đảo các bạn trẻ yêu thích?

Vì sao lại là ngôn tình?

Nói đến ngôn tình, người ta sẽ nhắc đến hàng loạt cuốn sách của các tác giả Trung Quốc: Tào Đình, Cố Mạn hay Diệp Lạc Vô Tâm - đang bán rất chạy ở Việt Nam.

Loại sách này chủ yếu nói về tình yêu trắc trở, cùng nhau vượt qua thử thách để tìm đến hạnh phúc của hai nhân vật nam - nữ chính. Hầu hết các bạn trẻ yêu thích ngôn tình đều trả lời rằng khi đọc chúng người ta tìm thấy một chút thoải mái trong tâm trạng và họ tìm thấy được tình yêu đích thực trong thế giới ảo mà ngoài đời thực không có. Nhiều bạn trẻ khác cho rằng, sách ngôn tình nói đúng tâm trạng, người đọc như thấy được chính mình trong đó, hơn nữa, ngôn tình rất dễ đọc, dễ hiểu và dễ bắt chước. Những bạn nữ tuổi mới lớn thần tượng hóa các nhân vật nam trong tiểu thuyết ngôn tình, họ lấy các nhân vật ảo này làm thước đo để chọn người yêu. Ngoài ra, một số bạn trẻ còn lập hẳn các fanpage “Hội phát cuồng vì tiểu thuyết ngôn tình” và những trang mạng đăng các tiểu thuyết ngôn tình hay nhất. Tuy nhiên, loại sách này thường bị các nhà phê bình chê vì không phải là sách văn học, không có giá trị về mặt tư tưởng và từ ngữ gây lệch lạc về nhận thức, đôi khi còn pha yếu tố sex.

Đặc biệt, hiện nay, một loại sách ngôn tình là đam mỹ rất thu hút giới trẻ bởi nội dung khác lạ. Đam mỹ là sách xuất phát từ trào lưu văn học Yaoi Nhật Bản nói về tình yêu nam - nam và có những cảnh 18+ và tác giả đều là nữ. Người hâm mộ sách này đều là các bạn nữ, họ cho rằng những câu chuyện trong tiểu thuyết tình cảm khá ủy mị, nó chỉ dừng lại ở việc người này yêu người kia và chép lại những nhu cầu tình yêu mà ai cũng trải qua mà thôi và nó không khiến độc giả phải suy nghĩ khi gấp sách lại. Chính vì thế, những trắc trở khác biệt của tình yêu giữa nam giới được đề cập trong đam mỹ và cái kết không bao giờ có hậu đã kích thích sự tò mò của giới trẻ. Tuy nhiên, những người yêu thể loại sách này hiện không hài lòng và dần ít đọc hơn, họ chỉ tìm những bản cũ để đọc vì đam mỹ hiện bị lệch chất và biến chứng rất nhiều. Người hâm mộ lo rằng, khi sách đam mỹ xuất hiện tràn lan và không kiểm soát được độ tuổi người xem thì các bạn trẻ dễ bị ảnh hưởng. Cẩm Hồng (sinh viên năm thứ hai một trường đại học) lo ngại: “Tôi không biết các bạn trẻ thật sự đam mê đam mỹ không hay chỉ hưởng ứng theo trào lưu. Tôi đã chứng kiến một bé mới 13, 14 tuổi mà rành rọt truyện đam mỹ đủ kiểu. Như vậy thật nguy hiểm cho giới trẻ khi các bạn chưa đủ hiểu biết để tự nhận thức”.

Ngán đọc sách… nhiều chữ

Ngoài tiểu thuyết ngôn tình, giới trẻ còn yêu thích truyện tranh Nhật Bản, sách tâm lý, kỹ năng sống, truyện ngắn, văn học kinh điển, phong thủy… Một số ít thích đọc sách triết học, khảo cổ học, nghiên cứu thế giới động vật, quá trình phát triển của loài người và hồi ký chiến tranh. Đỗ Trường (sinh viên Cao đẳng Phát thanh truyền hình II) chia sẻ: “Trải qua nhiều mối tình, va vấp nhiều trong đời nên mình thích những cuốn tiểu thuyết Đồi gió hú, Sông đông êm đềm, Chiến tranh và hòa bình hay sách của Quỳnh Dao, Haruki Murakami đem lại cho mình những câu chuyện nhân sinh về tình cảm và xã hội. Tiểu thuyết tình cảm không chỉ có tình cảm mà còn mang lại cho mình kiến thức về tâm lý, tình dục, hôn nhân và gia đình. Đối với mình, những cuốn sách hay không phải lượng ấn bản phát hành hay tiêu thụ “khủng”, cũng không hẳn là vì tên tuổi tác giả được báo chí truyền thông tung hô, mà đơn giản, là những cuốn sách phản ánh đúng tâm trạng của người đọc”.

Người trẻ đọc sách: Thích ngắn, ngán dài, chuộng đơn giản ảnh 1
Người trẻ đọc sách tại Hội sách TPHCM năm 2016. Ảnh: TƯỜNG VY

Trong khi đó, sự thật là sách nghiên cứu khoa học quá dài với những khái niệm hàn lâm khó hiểu, nội dung khô khan; một vài quyển giáo trình dành cho sinh viên cao đẳng - đại học không đào sâu thực tiễn, không thiết thực. Nhiều bạn trẻ cho rằng, nếu chọn đọc sách khoa học và xem phim khoa học thì hãy chọn xem truyền hình vì dễ tiếp thu, dễ tưởng tượng, không phức tạp như trong sách viết. Tuy nhiên, cũng có không ít bạn trẻ hào hứng với loại sách này. Phan Thị Hồng Hạnh (sinh viên Đại học Văn hóa) bày tỏ: “Tôi không thích đọc ngôn tình vì nó quá hư cấu, nếu muốn trải nghiệm tình yêu thì chờ đến khi trưởng thành. Tôi thích dòng sách hồi ký về chiến tranh hiểu thêm về cuộc sống và yêu đất nước mình hơn”. Một số ít bạn trẻ lại chọn sách nghiên cứu triết học hay văn học vì cung cấp khá nhiều kiến thức…

Ngoài ra, Manga Nhật Bản, sách tâm lý, cuộc sống luôn là lựa chọn hàng đầu của giới trẻ bởi nó đáp ứng được nhu cầu cá nhân của giới trẻ như đem lại kiến thức, các kỹ năng mềm trong cuộc sống, dần hình thành tư duy, có cái nhìn khách quan và nhiều điều ý nghĩa mà ở ngoài đời không thể lý giải được.

THU HƯƠNG

_________________
Vào đây đọc truyện:

https://www.nhomcho.com/f7-truyen-ngan

https://www.nhomcho.com/f8-truyen-dai

Vào đây nghe nhạc Việt:

https://www.nhomcho.com/f14-nhac-vn
LDN

LDN


Back to top Go down

Sách  - Page 48 Empty Re: Sách

Post by Sponsored content



Sponsored content


Back to top Go down

Page 48 of 55 Previous  1 ... 25 ... 47, 48, 49 ... 51 ... 55  Next

View previous topic View next topic Back to top

- Similar topics

Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum