Our forum runs best with JavaScript enabled !

CHỮ QUỐC NGỮ, CHỮ QUỐC NGỮ RA ĐỜI LÚC NÀO? - Tiếng việt

View previous topic View next topic Go down

CHỮ QUỐC NGỮ, CHỮ QUỐC NGỮ RA ĐỜI LÚC NÀO? - Tiếng việt  Empty CHỮ QUỐC NGỮ, CHỮ QUỐC NGỮ RA ĐỜI LÚC NÀO? - Tiếng việt

Post by LDN Sun Feb 20, 2022 10:41 am

KHỞI ĐẦU CỦA CHỮ QUỐC NGỮ, CHỮ QUỐC NGỮ RA ĐỜI LÚC NÀO?

FRANCESCO DE PINA - NGƯỜI ĐẦU TIÊN TẠO CHỮ QUỐC NGỮ

NGƯỜI ĐẦU TIÊN IN SÁCH QUỐC NGỮTRƯƠNG VĨNH KÝ - THẦY DẠY CHỮ QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊNNHÀ BÁO QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊN

TRƯƠNG MINH KÝ - NHÀ VĂN VIẾT CHỮ QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊN

Lâu nay, những người yêu tiếng Việt bình thường và một số tài liệu khi nói đến chữ quốc ngữ thường cho rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes (thường gọi là Đắc Lộ), tác giả cuốn Từ điển Việt - Bồ - La in tại La Mã năm 1651, là ông tổ của chữ quốc ngữ.

Thế nhưng, sự thật chưa hẳn là vậy…

Ngay từ khi bập bẹ, chúng ta đã nói tiếng Việt, và hoàn toàn không có gì khó khăn. Nhưng "tiếng Việt khó quá!" là ý kiến của rất nhiều người phương Tây khi tiếp cận tiếng Việt.

Tiếng Việt cấu trúc đơn giản; đơn âm không có "thì", không có chia động từ, không có tiếp đầu ngữ, vĩ ngữ thì có gì là khó?

Xin thưa, đối với người phương Tây, tiếng Việt khó ở chỗ phát âm (nghe và nói).

Giáo sĩ Marini, người đã từng đến Đàng Trong những thập niên đầu thế kỷ 17, viết: "Khi đọc, người Việt không cần phải thay đổi tiếng mà vẫn làm cho một tiếng ấy có nhiều nghĩa khác nhau, bởi vì họ chỉ cần lên giọng hoặc hạ giọng tùy theo cường độ và nhịp điệu" (Lịch sử chữ quốc ngữ, Đỗ Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).

Đây là một nhận xét cực kỳ "mới" mà người Việt chúng ta không bao giờ để ý. Chỉ cần thay đổi chút xíu khẩu âm và không thay đổi khẩu hình thì các chữ "ca, cà, cá, cả" mang nghĩa khác nhau một trời một vực.

Nửa cuối thế kỷ 16, các giáo sĩ thừa sai Dòng Tên (Jésu) đã bắt đầu đến châu Á truyền đạo. Một trong những nơi họ đến ban đầu chính là Trung Quốc, nơi mà trước đó vài thế kỷ, Maco Polo, nhà buôn người Ý, đã đến và mang về nhiều đồ vật lạ lùng của phương Đông.

Dòng Tên là một dòng tu trí thức của đạo Thiên Chúa. Tất cả những giáo sĩ của dòng này đều có trình độ tiến sĩ, nếu ai không đạt được bằng cấp ấy thì buộc phải rời dòng.

Những giáo sĩ này xuất thân từ những nước sử dụng chữ viết Latin nên khi đến những nước sử dụng chữ tượng hình đã gặp khó khăn trong việc truyền đạo. Do là những trí thức có trình độ cao, họ nhanh chóng học nói tiếng của người bản địa.

Song việc truyền đạo không chỉ nói là đủ, mà cần phải có kinh sách để các con chiên có thể học, đọc theo và truyền lại. Bởi không có giáo sĩ, thầy giảng nào có thể thay thế kinh sách. Mà chữ tượng hình thì rất khó học, và mất rất nhiều thời gian để học mới có thể đọc sách được, chứ chưa nói đến việc dịch lại kinh sách nước ngoài.

Mặt khác, việc truyền đạo Thiên Chúa vào các nước này (trong đó có nước ta) vào thời điểm ấy không phải lúc nào cũng suôn sẻ, dễ dàng, liên tục, do tùy thuộc vào sự vui buồn của quan quân địa phương, tùy thuộc vào tình hình chính sự yên ả hay loạn lạc của quốc gia mà các giáo sĩ Dòng Tên đặt chân đến.

Nhiều giáo sĩ sau một thời gian ngắn truyền đạo đã bị bắt, bị giết, bị đuổi đi...

Để có thể truyền lại kinh sách một cách tốt hơn, các giáo sĩ đã nghĩ ra phương pháp "Latin hóa chữ tượng hình". Và họ đã làm việc này ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhựt Bổn.

Đầu thế kỷ 17, một số giáo sĩ thuộc Dòng Tên đã đến Hội An. Họ dùng tiếng Hán và Nhựt để giao tiếp với dân địa phương qua phiên dịch của các thương nhân.

Đến năm 1617, giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha đến Hội An và Nước Mặn (thuộc Bình Định), rồi trở về cư ngụ tại Thanh Chiêm (Điện Bàn, Quảng Nam) đã học rất nhanh tiếng Việt và trở thành người phương Tây giỏi tiếng Việt nhất thời bấy giờ.

Và để có thể truyền lại kinh sách giáo lý của đạo Thiên Chúa, Pina cùng một số giáo sĩ khác đã có kinh nghiệm Latin hóa tiếng Nhựt, Hán bắt tay vào Latin hóa tiếng Việt.

Thuở ấy, người Việt vẫn nói tiếng Việt như bây giờ. Song do phải trải qua 1.000 năm bị Trung Quốc đô hộ, giới trí thức nước ta bị ảnh hưởng của Trung Hoa rất mạnh. Không rõ trước đó, người Việt có chữ riêng của mình hay không. Song các triều đại của người Việt sau này đều dùng chữ Hán trong các văn bản chính thức.

Khoảng thế kỷ thứ 10, người Việt đã "sáng chế" ra thứ chữ Việt bằng cách mượn chữ Hán mà viết, gọi là chữ Nôm (nghĩa là Nam, sau gọi là quốc âm). Song nếu chữ Hán khó một thì chữ Nôm khó mười. Bởi phải biết và giỏi chữ Hán mới có thể viết được, học được chữ Nôm.

Đối với người Việt học chữ Nôm đã khó, với người ngoại quốc xa lạ với chữ tượng hình thì chữ Nôm càng khó. Vẫn có thể học được, viết được nhưng không thể phổ biến rộng được. Chính vì vậy các giáo sĩ đã nghĩ đến việc Latin hóa tiếng Việt bằng mẫu tự Latin, mà ngày xưa gọi là "chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin".

Có một số người được công nhận là "tác giả" chữ quốc ngữ là các giáo sĩ Francesco de Pina, Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa (đều là người Bồ Đào Nha), Cristoforo Borri (người Ý), Alexandre de Rhodes (người Pháp)...

Giáo sĩ Borri chỉ ở nước ta ba năm từ 1615 đến 1618. Còn ba giáo sĩ còn lại đều đến Đàng Trong năm 1624 và đều là học trò tiếng Việt của giáo sĩ Francesco de Pina.

Tuy nhiên, trong số này, chỉ có giáo sĩ Đắc Lộ cho in cuốn sách tiếng Việt đầu tiên là cuốn Từ điển Việt - Bồ - La nên được dân Việt cho là "ông tổ" của chữ quốc ngữ từ hơn trăm năm qua.

400 năm sau, người Việt, những người thụ hưởng và tự hào thứ chữ này, lại biết rất lơ mơ về lịch sử của nó. Họ không biết chắc ai là người sáng tạo ra chữ Việt, Francesco de Pina hay Alexandre de Rhodes?

Ở đâu, Thanh Chiêm hay Nước Mặn? Lưu giữ thế nào? Phổ biến ra sao? Phát triển thế nào? Lúc nào được sử dụng phổ thông?

Trong hai thế kỷ từ 15 đến 17, các thương buôn Bồ Đào Nha có mặt hầu như khắp thế giới. Theo chân họ là những nhà truyền giáo, phần lớn là người Bồ và người Ý, tháp tùng truyền đạo ở những vùng đất mới.

Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính thì trong số 145 giáo sĩ thuộc 17 quốc tịch đến Đàng Trong truyền giáo từ năm 1615-1788, có đến 74 người Bồ Đào Nha, 30 người Ý.

Dòng Tên (Jesu) của đạo Thiên Chúa là dòng tu đi truyền đạo thời kỳ ấy. Theo luật của dòng, mỗi khi đến vùng đất mới phải học tiếng địa phương, và với tài năng riêng từng người, họ đã Latin hóa tiếng nói và chữ viết địa phương để những người theo đạo có thể đọc được những kinh sách của đạo.

Thứ chữ Latin này được truyền lại cho các giáo sĩ đến sau. Đây là phương thức mà họ đã thực hiện ở nhiều nơi như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Brasil... trong các thế kỷ 15, 16 trước khi đến Việt Nam. Riêng ở Viễn Đông, dòng tu này thiết lập một trụ sở lớn và lâu dài ở Macau để làm nơi đi và đến cho các giáo sĩ.

Đầu thế kỷ 17, năm 1615, các giáo sĩ Dòng Tên đã đến Đàng Trong và lần lần họ học tiếng Việt. Sau đó, các giáo sĩ này đã bắt tay vào việc Latin hóa chữ Việt.

Tài liệu viết tay của giáo sĩ João Roiz (người Bồ) viết năm 1621 đã có các chữ quốc ngữ ban đầu như An Nam (Việt Nam tức Đàng Trong. Thời điểm này nước ta chưa có vùng đất Nam Bộ), Sinoa (xứ Hóa tức Thuận Hóa), unsai (ông sãi), Cacham (Kẻ Chàm, sau này là Thanh Chiêm), ungue (ông nghè)...

Còn những chữ Việt trong bản tường trình của Gapar Louis (người Bồ) viết năm 1621 cũng đã có chữ ungué (ông nghè), bancô (bàn cổ). Còn Cristoforo Borri (người Ý), tác giả cuốn Xứ Đàng Trong, đến Đàng Trong cùng với Francesco de Pina thành lập trú sở Nước Mặn (Bình Định) năm 1618, trong tác phẩm viết năm 1621 đã có những chữ: Tunchim (Đông Kinh, tức Hà Nội), Lai (Lào), Ainam (Hải Nam), kemoi (kẻ mọi, xứ mọi, Tây Nguyên), Quanguya (Quảng Nghĩa), Quignin (Qui Nhơn), dàdèn lùt (đã đến lúc), nayre (nài), doij (đói), chià (trà), sayc kim (sách kinh), cò (có). Cũng năm 1621, giáo sĩ Bozumi viết các chữ: onsaij (ông sãi), Quanghia (Quảng Nghĩa), Nuoecman (Nước Mặn), da an nua (dạ ăn nữa)...

Như vậy, tới năm 1621, việc Latin hóa tiếng Việt vẫn chưa có dấu thanh. Tài liệu viết tay của giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của Francesco de Pina, viết năm 1626 đã thấy xuất hiện dấu thanh. Dĩgcham (Dinh Chàm), Núocman (Nước Mặn), Sinúa (xứ Hóa), ondedóc (ông đề đốc), nhít la khấu, khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt).

Và di cảo của Pina vừa tìm thấy ở Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha giữa năm 2018 thì chữ quốc ngữ đã có dấu như ngày nay. Tài liệu này trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7-2018.

Như vậy, có thể khẳng định rằng chữ quốc ngữ ra đời có một quá trình dài từ năm 1618 cho đến 1625 với sự hợp tác của nhiều người chứ không chỉ một người. Và đa số "tác giả" của chữ quốc ngữ đều là người Bồ Đào Nha, người Ý cùng với một số người Việt theo đạo Thiên Chúa góp sức.

Và người được xác định "giỏi tiếng Việt nhứt" và có công lớn nhứt trong việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ chính là giáo sĩ Francesco de Pina người Bồ Đào Nha.

Francesco de Pina đến Hội An đầu năm 1617, thành lập trú sở Nước Mặn năm 1618, rồi thành lập trú sở Thanh Chiêm (tức Kẻ Chàm, Dinh Chàm) năm 1623. Từ năm 1619, Pina đến cư trú tại Thanh Chiêm và cuối năm 1625 ông chết đuối trên biển Cù Lao Chàm do vướng áo chùng không bơi được khi thuyền lật.

Thi thể ông được chôn ở sau nhà thờ Phước Kiều (nay là nhà thờ Thánh Andre), thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đây là nhà thờ do chính ông thành lập khi đến cư trú tại Thanh Chiêm và là nơi trú ngụ của nhiều giáo sĩ khác, trong đó có Đắc Lộ.

Sau khi ông mất, một học trò tiếng Việt của ông là giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến Đàng Trong năm 1624, đã ôm tất cả những di cảo của thầy mang về Macau vào năm 1626. Tại Macau thuở ấy còn có hai giáo sĩ cũng chăm chú nghiên cứu chữ quốc ngữ và đã soạn thảo hai cuốn tự điển Việt-Bồ-La và Bồ-Việt.

Đó là hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa cư trú ở Macau gần 10 năm. Đáng tiếc là công trình của họ chưa kịp công bố thì tháng 2-1646 Gaspar mất trên đường biển đi đến nước ta và sau đó một năm thì Barbosa cũng mất vì bệnh.

Trong lời nói đầu cuốn Tự điển Việt - Bồ - La của mình, Đắc Lộ có nhắc đến việc "tham khảo" tài liệu của hai giáo sĩ trên, cho thấy Đắc Lộ đã thừa hưởng những di sản được người khác sáng tạo ra để góp phần hoàn thành cuốn tự điển có tiếng Việt đầu tiên trên thế giới.

Điều đáng tiếc là hiện nay vẫn chưa tìm thấy hai cuốn tự điển của Gaspar và Barbosa đã viết. Rất mong số phận của nó giống như cuốn tự điển của Bá Đa Lộc, tưởng đã cháy mất trong một trận hỏa hoạn ở Cà Mau nhưng lại được tìm thấy vào thập niên 1980.

Để chứng minh "lòng tin" của mình, R. Jacques đã bỏ ra hơn mười năm lục tung các thư tịch của Dòng Tên ở châu Âu tìm bằng chứng.

Và cuối cùng, tại Thư viện Hoàng gia Lisbon của Bồ Đào Nha, ông đã tìm được hai tác phẩm của Pina chưa hề được công bố.

Đó là bức thơ viết dở dài 7 trang Pina viết năm 1623 (một năm trước khi Đắc Lộ đến Đàng Trong và học tiếng Việt năm 1624) gửi cho bề trên Jerómino Rodiguez ở Macau, và một tiểu luận dài 22 trang tựa đề Nhập môn tiếng Đàng Ngoài.

Francesco De Pina sanh tại thành Guarda, Bồ Đào Nha khoảng năm 1585, gia nhập Dòng Tên vào năm 19 tuổi, sau đó đến xứ Goa (Ấn Độ) sống ít lâu trước khi sang Trung Quốc truyền đạo. Năm 1611, ông theo học tại Học viện Macau (Collège de Macau) về khoa học xã hội, thần học và tiếng Nhật.

Năm 1617, ông thụ phong linh mục và được cử đến Đàng Trong làm việc tại trú sở Hội An. Qua năm 1618, Pina đến cư trú tại Nước Mặn với Buzomi và Borri, người Ý.

Năm 1619, ông đến Thanh Chiêm mua đất dựng nhà thờ và năm 1623 thành lập trú sở Thanh Chiêm. Pina chết đuối trên bờ biển Quảng Nam ngày 15-12-1625.

Dịp đó, tàu Bồ Đào Nha từ Campuchia về Macau, bỏ neo ở hải phận Quảng Nam, gần Cù Lao Chàm, Pina cùng một người Việt Nam chèo thuyền ra tàu để lấy các đồ phụng sự.

Khi trở vào bờ, bất ngờ gió bão nổi lên, thuyền lật, Pina vì vướng áo chùng không bơi được nên chết đuối, còn người kia bơi vào bờ thoát nạn. Theo linh mục Đỗ Quang Chính, xác ông được đưa về Hội An làm lễ an táng rất trọng thể.

Gần đây, theo ông Đinh Trọng Tuyên - người dân Thanh Chiêm rất quan tâm đến chữ quốc ngữ, Pina được chôn cất sau nhà thờ Phước Kiều, nay là nhà thờ Thánh Andre, nhà thờ chính ông mua đất và xây dựng đầu tiên năm 1619, thuộc thôn Thanh Chiêm 1, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Việc Latin hóa thổ âm, đặc biệt là những tiếng của những quốc gia dùng chữ tượng hình, đã được các giáo sĩ thực hiện từ thế kỷ 15-16. Các công trình Latin hóa này được thực hiện với mục đích duy nhứt là làm cho các con chiên có thể đọc được kinh sách đạo Thiên Chúa, để đạo giáo này phổ biến mạnh hơn.

Đối với tiếng Việt, Pina cũng thực hiện Latin hóa với mục đích trên.

Vừa đến Hội An, Pina lao vào học tiếng Việt và chỉ trong thời gian rất ngắn, ông đã có thể đàm thoại với người bản xứ mà không cần qua phiên dịch. Giáo sĩ Gaspar Luis, người đến Đàng Trong năm 1624 cùng với Đắc Lộ, đã ghi lại như sau: "Linh mục De Pina đến Đàng Trong năm 1617. Đó là giáo sĩ đầu tiên đã miệt mài nghiên cứu tiếng nói".

Khi Đắc Lộ đến Thanh Chiêm vào năm 1624 thì đã thấy Pina giảng Kinh thánh mà không cần phiên dịch. Và Pina cũng là giáo sĩ duy nhứt giảng Kinh thánh bằng tiếng Việt ở Thanh Chiêm.

Không chỉ vậy, để có thể nghiên cứu tiếng Việt chuẩn hơn, ông đã xin về Thanh Chiêm từ năm 1619, trước khi trú sở này được thành lập vào năm 1623.

Trong tài liệu mà Roland Jacques tìm được, ông viết: "Đối với việc nghiên cứu tiếng nói, Kẻ Chàm vẫn là nơi tốt nhất với tư cách là trung tâm triều đình (thời điểm này Thanh Chiêm, tức Kẻ Chàm, là nơi đóng dinh Trấn Quảng Nam).

Hội An xưa là thủ đô kinh tế của Đàng Trong và là khu phố chợ quan trọng, một trung tâm thương mại lớn của cả vùng miền Trung. Do là khu thương mại, mua bán nên dân cư cũng hỗn tạp, ngôn ngữ cũng lai tạp.

Trong khi đó, Thanh Chiêm là "thủ đô" chính trị của Đàng Trong thời kỳ này, tiếng nói ổn định hơn và có nhiều trí thức hiểu biết về chữ nghĩa hơn. Vì vậy, việc lựa chọn của Pina rõ ràng là nhắm vào việc nghiên cứu tiếng Việt chuẩn xác hơn. Tại nơi này, ông cũng thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với quan trấn thủ dinh trấn.

Đối với việc nghiên cứu tiếng Việt, Pina bắt đầu bằng suy nghĩ mà đã có nhiều người phương Tây nói đến là tiếng Việt tuy khó nhưng lại "du dương hòa điệu", "giống như bản nhạc liên hồi". Khi nghe người Việt nói, C. Borri cho rằng: "Người nào có tài về âm nhạc, biết phân biệt âm thanh thì tiếng Việt là tiếng dễ dàng đối với họ" (Lịch sử chữ quốc ngữ, Đỗ Quang Chính, NXB Tôn Giáo 2012, trang 15).

Việc Latin hóa tiếng Việt là công việc được tiến hành lâu dài và tiệm tiến. Ban đầu, các giáo sĩ chỉ có thể ghi lại âm tiếng Việt bằng những từ ngữ mà "chỉ có họ mới hiểu được" như Cecham (Kẻ Chàm, một cách gọi xưa của Thanh Chiêm), Quamguya (Quảng Nghĩa), Quinin (Qui Nhơn), nayre (nài, nài voi), Onsaij (ông sãi)... rồi tiến đến Ke Cham (Kẻ Chàm), Qui nin (Qui Nhơn), ten si (tiến sĩ), dau nhu (đạo Nho), ba hon (ba hồn) bai via (bảy vía)... sau hết mới có dấu như ngày nay.

Do đó, khi bắt đầu nghiên cứu sáng tạo chữ quốc ngữ, Pina ghi lại tiếng nói của người Việt bằng "những khung nhạc". Và trong tài liệu mới đây được triển lãm trong hội thảo chữ quốc ngữ vào tháng 7-2018 tại Lisbon, Bồ Đào Nha, người ta đã thấy những khung nhạc để thể hiện dấu âm của tiếng Việt.

Chính những người Bồ và người Ý mới có thể tạo ra những dấu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) của chữ quốc ngữ. Nếu chữ Ba là nốt La (A) thì Bá là nốt La thăng (A#), Bả là nốt Mi (E), Bà là nốt Rê (D)... trong âm nhạc. Đây cũng là một nguyên tắc đánh dấu âm của tiếng Việt mà người Pháp như Đắc Lộ, vốn chữ không có dấu, không thể làm được.

Cũng trong tài liệu trên, Pina ghi chép khá nhiều chữ, từ những chữ bình thường dễ nghe dễ đọc đến những chữ khó nghe, khó viết như "chớ đi", "đừng làm", "khoãn đã nào" [khoan đã nào], "có đi thì đến", "bán bạo nheo" [bán bao nhiêu], "bao mlớn" [bao lớn]... và tất cả những chữ này đều rất gần với chữ Việt hiện nay.

Tượng ông được dựng ở Hà Nội, tên ông được đặt ở đường phố trung tâm của thành phố Sài Gòn. Song đó chỉ là một nửa sự thật. Lý do đơn giản vì ông là người Pháp.

Giáo sĩ Đắc Lộ sinh tại Avignon (vùng đất thuộc tòa thánh La Mã đến năm 1791 mới sát nhập vào nước Pháp) ngày 15-3-1593 trong một gia đình Do Thái, quốc tịch Tòa thánh La Mã, trong một gia đình quý phái.

Ông gia nhập Dòng Tên ngày 14-4-1612, thụ phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cùng năm đó, ông được chấp thuận cho đi truyền giáo tại Đông Á sau ba lần xin. Ông tới thủ đô Bồ Đào Nha đáp tàu đi Đông Á và ngừng lại ở Goa (Ấn Độ) khá lâu, đến ngày 29-5-1623 mới tới Macau. Dù muốn đi Nhật song bề trên muốn ông truyền giáo ở Đàng Trong.

Ông tới Đàng Trong lần thứ nhất tháng 12-1624, tới tháng 7-1626 ông trở về Macau. Tháng 3-1627 ông tới Đàng Ngoài và tháng 5-1630 ông bị chúa Trịnh Tráng trục xuất. Từ năm 1630-1640 ông dạy thần học ở Học viện Madre de Dues.

Từ năm 1640-1645 ông lại truyền giáo ở Đàng Trong. Tháng 7-1645 ông rời Đàng Trong về Macau rồi đi châu Âu. Năm 1654 ông đi Ba Tư rồi qua đời ở Ispahan ngày 5-11-1660.

Khi tới Đàng Trong, ông đã đến Thanh Chiêm và học tiếng Việt. Và thầy dạy tiếng Việt cho Đắc Lộ chính là Francesco de Pina. Đắc Lộ được bố trí ở chung nhà với Pina.

Trong lời đề tựa cuốn Tự điển Việt - Bồ - La, Đắc Lộ cho biết "ông học tiếng Việt chăm chỉ như khi theo học khoa thần học ở La Mã. Nhờ đó sau bốn tháng ông được giải tội và thêm sáu tháng nữa là ông có thể giảng bằng tiếng Việt".

Ông còn học tiếng Việt với một em nhỏ người Việt 13 tuổi. Nhờ vậy mà trong ba tuần ông đã biết phân biệt các "thanh" tiếng Việt và cách phát âm mỗi tiếng. Em nhỏ này sau đó được Đắc Lộ làm phép rửa tội (nghi thức nhập đạo Thiên Chúa) và đặt tên là Raphael Rhodes, sau đó trở thành "kẻ giảng" (tu sĩ cấp 2 trong dòng tu).

Ông này tham gia truyền giáo ở Lào, Đàng Ngoài nhưng sau đó không tu nữa, lấy vợ và trở thành một thương gia giàu có ở Đàng Ngoài và Phố Hiến.

Cũng nên biết rằng Đắc Lộ là một giáo sĩ có năng khiếu về ngôn ngữ, biết khá nhiều thứ tiếng. Ông có thể viết và nói các tiếng Pháp, Ý, Latin, Bồ, Việt và sử dụng sơ sơ tiếng Nhật, Trung Hoa, Ba Tư và Kokani.

Trong những lần trở lại Đàng Trong và Đàng Ngoài, ông thu thập thêm những kiến thức về tiếng Việt và phương thức Latin hóa tiếng Việt, đặc biệt là dấu thanh, đồng thời so sánh với những chữ đã được Pina cùng các giáo sĩ khác Latin hóa như Barbosa, Gaspar...

Một trong những người giúp sức tích cực cho Đắc Lộ được ghi nhận là thầy giảng Y Nhã (người Việt), một người thông thạo văn chương, triết học, từng làm quan trước khi gia nhập hàng thầy giảng.

Để hiểu trình độ chữ quốc ngữ của Đắc Lộ, chúng ta hãy đọc bản thảo viết tay bằng tiếng Bồ cuốn "Tình hình truyền giáo ở Đàng Ngoài từ năm 1636-1646" của Đắc Lộ được lưu trữ tại văn khố Dòng Tên ở La Mã.

Dù viết bằng chữ Bồ nhưng bản thảo có rất nhiều chữ quốc ngữ như Ainam (Hải Nam), Che ce (Kẻ Chợ), chúa õu (chúa Ông), Uuan (vương), bat minh (bất minh), thuam (thuận), gna ti (nhà ti), cai huyen (cai huyện), bua (vua), den (đền), ten si (tiến sĩ)...

Trong khi đó, từ năm 1626, giáo sĩ Gaspar đã viết Bến Đá (xã Bến Đá), bude (bồ đề), ondedóc (ông đề đốc), onghe (ông nghè), nhít la khấu, khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt)... Hoặc giáo sĩ Francesco Buzumi viết năm 1626: xán tí (thượng đế), thien chu (thiên chủ, thiên chúa), ngoac huan (ngọc hoàng)...

Những so sánh này để cho thấy các giáo sĩ khác trong việc Latin hóa tiếng Việt đã đi trước Đắc Lộ chừng 10 năm, và Pina chắc chắn phải đi xa hơn dù ông mất sớm.

Để có được cuốn Tự điển Việt - Bồ - La in năm 1651 tại La Mã, ngoài việc nỗ lực tuyệt vời trong học hành và nghiên cứu, Đắc Lộ còn phải dựa vào tài liệu những người đi trước. Hai tài liệu được khẳng định từ lâu là hai cuốn tự điển Việt - Bồ và Bồ - Việt của hai giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa (viết xong nhưng chưa kịp công bố thì đã qua đời).

Những tài liệu này được lưu giữ tại nhà thờ Saint Pauli (Macau). Có thể Đắc Lộ cũng đã sử dụng cả những di cảo của thầy ông là giáo sĩ Pina. Các phát hiện gần đây cho thấy trong di cảo của Pina chữ quốc ngữ viết bằng mẫu tự Latin đã có những dấu âm và khá gần với chữ quốc ngữ hiện nay.

Cũng cần nên biết tại sao tự điển của Đắc Lộ lại chỉ là Việt - Bồ - La mà không có thứ tiếng khác. Trong hai thế kỷ từ 15 đến 17, vai trò thương mại của Bồ Đào Nha bao trùm cả khu vực châu Á và theo đó là các giáo sĩ phương Tây sử dụng tiếng Bồ.

Trong lời nói đầu, Đắc Lộ đã nói rõ mục đích của cuốn tự điển là "giúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt" và "làm theo ý muốn của một số vị Hồng y ở La Mã là thêm chữ Latin vào để người Việt có thể học thêm La ngữ".

Cuốn sách đầu tiên về chữ quốc ngữ của Đắc Lộ gồm có hai phần. Phần một mang tên "Báo cáo vắn tắt về tiếng Annam hay Đông Kinh", phân tích văn phạm tiếng Việt. Phần còn lại chính là quyển tự điển.

Ngoài ra, ông còn viết một cuốn sách bằng hai thứ tiếng Việt-Latin tên là Phép giảng tám ngày. Đây là cuốn giáo lý dành cho các thầy giảng đạo Thiên Chúa. Bản in lần đầu tiên hiện còn được bảo quản ở nhà thờ Mằng Lăng (Phú Yên).

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

CHỮ QUỐC NGỮ, CHỮ QUỐC NGỮ RA ĐỜI LÚC NÀO? - Tiếng việt  Empty Re: CHỮ QUỐC NGỮ, CHỮ QUỐC NGỮ RA ĐỜI LÚC NÀO? - Tiếng việt

Post by LDN Sun Feb 20, 2022 10:57 am

Chữ quốc ngữ

Trương Vĩnh Ký Trường quốc ngữ Thầy giáo Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên

TTO - Dù có rất nhiều ý kiến khác nhau về ông Trương Vĩnh Ký, song có lẽ không ai có thể phủ nhận rằng ông là người Việt đầu tiên "làm thầy giáo" chữ quốc ngữ.

Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...

Lời nói đầu của TRƯƠNG VĨNH KÝ trong cuốn Vần quốc ngữ...

Chỉ riêng điều này, ông xứng đáng là "tiền hiền" trong số những người có công sáng tạo và phổ biến chữ quốc ngữ ở nước ta.

Pháp mở trường thông ngôn

Tháng 5-1862, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, gồm Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, phó đô đốc Charner đã ký lịnh thành lập Trường Thông ngôn (Collège des Interprèste) dạy hai thứ tiếng Pháp và quốc ngữ nhằm đào tạo thông ngôn cho quân đội viễn chinh.

Ngày xưa, trường được dân chúng và báo chí gọi là Trường Khải Tường, vì trường đặt trong khuôn viên chùa Khải Tường; và cơ sở đó nay là Trường Lê Quý Đôn.

Vì sao quân Pháp không sử dụng tiếng Pháp mà phải dùng cả chữ quốc ngữ ở Nam kỳ?

Thực tế, sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, quân Pháp phải dùng rất nhiều giáo sĩ Thiên Chúa để làm thông ngôn trong việc giao tiếp với dân chúng. Song không phải giáo sĩ nào cũng "hết mình" vì công việc. Một số thông ngôn đã lợi dụng công việc để truyền đạo.

Năm 1861, giáo sĩ Paulus Galy (tên Việt là Lý) được cử đến làm thông ngôn cho đồn Thuận Kiều đóng tại làng Thuận Kiều thuộc 18 thôn vườn trầu.

Đến năm 1863, không rõ công trạng làm thông ngôn của ông thế nào nhưng ông đã thành lập được giáo xứ Bà Điểm và lập nhà thờ sau chợ. Và cuối cùng vị giáo sĩ này trở thành chủ chăn ở giáo xứ Bà Điểm và rời bỏ công việc thông ngôn. Đó là một nguyên nhân.

Nguyên nhân thứ hai là giới giáo sĩ Thiên Chúa lúc bấy giờ muốn "tham chánh" để chia sẻ quyền lực với quân đội Pháp. Đây là yêu cầu khó chấp nhận đối với giới quân đội.

Cuối cùng, một giải pháp trung dung được cả hai phía chấp thuận là "sử dụng chữ viết của công giáo ở Nam kỳ". Đó là chữ Annam viết bằng mẫu tự Latin, tức chữ quốc ngữ, chữ Việt ngày nay.

Trong suốt mấy trăm năm hình thành, chữ quốc ngữ, do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, luôn bị coi là thứ chữ "của người ngoại quốc" và chỉ phổ biến trong các nhà thờ và các xứ đạo Thiên Chúa.

Việc chánh quyền Pháp ở Nam kỳ chấp nhận cho phổ biến rộng rãi thứ chữ này là một bước đi quan trọng đối với các giáo sĩ. Và chính vì vậy Trường Thông ngôn ra đời.

Trương Vĩnh Ký - Thầy dạy chữ quốc ngữ đầu tiên - Ảnh 3.
Lịch sử Việt Nam viết bằng tiếng Pháp in năm 1877 của Trương Vĩnh Ký

Vai trò của Trương Vĩnh Ký

Ngay khi Trường Thông ngôn thành lập, ông Trương Vĩnh Ký được mời làm giáo sư. Và ông trở thành người Việt đầu tiên làm thầy giáo dạy chữ Việt, một công việc không hề dễ dàng lúc bấy giờ. Và năm 1864, sau khi từ Pháp trở về, ông được bổ nhiệm làm giám đốc trường này.

Cái khó khăn đầu tiên là làm sao có được giáo trình một thứ chữ mới rợi đối với mọi người? Sau khi trở thành giám đốc, Trương Vĩnh Ký đã viết cuốn sách giáo khoa đầu tiên mang tên Ngữ pháp tiếng Annam (Abrégé de grammaire Annamite) in năm 1867.

Sau đó là hàng loạt sách giáo khoa như Chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Sách tập nói chuyện tiếng An Nam và tiếng Langsa, Phép lịch sự An Nam, Văn phạm tiếng An Nam, Chữ quốc ngữ và lịch sử An Nam...

Riêng cuốn Văn phạm tiếng An Nam đã dày 304 trang in. Sách giáo khoa của ông rất chi tiết, từ cách đánh vần cho tới những từ ngữ, các danh từ, động từ, tính từ... đều phân biệt chi tiết. Ví dụ "con ốc" là loài ốc nói chung, khác với "con ốc vặn" mà ta gọi là ốc vít. Còn con cò thì khác với cò súng, con ngựa khác với ván ngựa (bộ ván), con ngựa của cây đờn...

Sách của ông cũng dạy đặt câu sao cho trúng cách và phân chia từ thấp đến cao một cách có hệ thống và khoa học. Đây lại là công việc của một người quả là rất đáng nể!

Không chỉ viết sách dạy chữ, ông còn viết cả lịch sử, chuyển âm truyện thơ Lục Vân Tiên, Kiều, Trương Lương... cho học trò có sách để đọc tham khảo.

Trong lời nói đầu cuốn Vần quốc ngữ và lịch sử An Nam, ông viết: "Sách nầy để cho con trẻ mới vô trường, học những điều đại lược mà phá ngu. Hai nữa là để tập coi, tập đọc, tập viết tiếng An Nam trong chữ quốc ngữ cho trúng tiếng, cho nhằm giọng, phân biệt ra cho rõ ràng...".

Ông đã làm thầy giáo trong suốt 22 năm kể từ năm 1864 cho đến năm 1886, thời điểm ông rời Sài Gòn ra Huế làm cố vấn cho vua Đồng Khánh theo đề nghị của toàn quyền Đông Dương Paul Bert.

Suốt thời gian này, ông có 9 năm trực tiếp ở các trường (từ 1864-1869 làm giám đốc Trường Thông ngôn, từ 1872-1876 làm giám đốc Trường Sư phạm) và đã viết khoảng 25 cuốn sách giáo khoa dành cho học trò học, trong số gần 200 tác phẩm của ông.

Đó là một số lượng rất lớn đối với một thầy giáo dạy chữ quốc ngữ trong điều kiện chưa có tiền lệ.

Thuở ấy, rất khó tìm được học sinh cho trường, do trong dân chúng truyền miệng nhau chữ quốc ngữ là thứ chữ của người ngoại quốc, học nó sẽ mất gốc hoặc bị Pháp bắt đi mất.

Ban đầu học sinh Trường Thông ngôn là lính Pháp, con em những người cộng tác với Pháp và con cháu của giới theo đạo Thiên Chúa. Về sau, để có học sinh, chánh quyền thực dân ra lịnh mỗi làng phải chọn một hay hai em trong lứa tuổi từ 10 đến 16 đi học.

Làng xã thường nhắm vào các gia đình có tiền của để bắt đi học, nên "kiếm người đi học mà như đi đánh giặc". Dù học nội trú, không tốn tiền, lại có tiêu vặt phí nhưng không mấy gia đình muốn con đi học. Sợ mất con, rất nhiều gia đình có tiền đã mướn người đi học thế.

Nghiệp làm thầy của ông Trương Vĩnh Ký để lại khá nhiều dấu ấn tốt đẹp. Một lớp khá đông học trò của ông, sau là những công chức mẫn cán của chế độ hoặc là những người có công lớn đối với nền văn học, văn hóa của nước nhà.

Nổi bật là các ông Trương Minh Ký (nhà báo, nhà văn, thầy giáo), Đặng Thúc Liêng (nhà báo, nhà văn), Nguyễn Khắc Huề (thầy giáo)...

Trường quốc ngữ đầu tiên ở Sài Gòn

Trước đó, trường dạy tiếng Annam viết bằng mẫu tự Latin đã được giáo sĩ Puginier Phước thành lập đầu năm 1860 mang tên d’Adran (nay là khuôn viên Trường Võ Trường Toản và Trưng Vương) khi giáo sĩ này phụ trách Tiểu Chủng viện Sài Gòn.

Và giáo sĩ Puginier Phước cũng là người thành lập giáo xứ Hạnh Thông Tây và dạy chữ quốc ngữ cho các giáo dân ở đây, trong số đó có Trần Tử Ca và Trương Minh Ký.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

View previous topic View next topic Back to top

- Similar topics

Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum