Our forum runs best with JavaScript enabled !

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Page 1 of 2 1, 2  Next

View previous topic View next topic Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sat Sep 24, 2022 5:32 pm

Ông Duyên Anh có tài viết văn, có lập trường. 1 trong những văn tài của VN.

Saigon xưa

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Duyên Anh (1935-1997)

Nhacxua

Duyên Anh là 1 trong những nhà văn tiêu biểu của miền Nam trước năm 1975. Những chủ đề nổi tiếng nhất trong tiểu thuyết Duyên Anh là truyện thiếu nhi, tuổi mới lớn, truyện tình yêu, đặc biệt là truyện về giới giang hồ, bụi đời như Vết Thù Trên Lưng Con Ngựa Hoang, Châu Kool, Điệu Ru Nước Mắt…

Nhiều người cho rằng Duyên Anh là người viết truyện thiếu nhi và tuổi mới lớn hay nhất miền Nam trước đây và ngay cả đến nay cũng không ai qua được ông. Sau này truyện của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có mang “hơi hướm” truyện Duyên Anh từ nhiều năm trước.

Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình.

Nhà văn Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, sinh ngày 16-8-1935 tại thị xã tỉnh Thái Bình, Bắc Việt, bên bờ sông Trà Lý nhưng sống thời thơ ấu ở làng Tường An, tổng Ô Mễ mà theo Duyên Anh là một làng nghèo nhất tỉnh Thái Bình. Xuất thân trong một gia đình nghèo, ông là con cả của một gia đình 7 người con. Thân sinh ông làm thầy lang, sau đổi ra buôn bán nhỏ. Ông học các trường tổng, trường tỉnh – tư thục Trần Lãm, rồi lên Hà nội học trung học. Ở quê nhà, Duyên Anh đã chứng kiến và sống những biến cố lịch sử 1945 và 1954. Duyên Anh di cư vào Nam cuối năm 1954.

Vào Sài Gòn, ban đầu ông sống qua nhiều nghề như giữ xe đạp, quảng cáo cho gánh xiệc bán thuốc kiểu Sơn Đông mãi võ, kèm trẻ tư gia,… Giữa năm 1955, ông theo Đại Việt Duy Dân lên Ban-Mê-Thuột làm ‘cách mạng’ được vài tháng rồi sau đó được người của tổ chức đưa xuống Long Xuyên dạy học ở các trường bán công Hòa Hảo, Kinh Dương, Nguyễn Trung Trực. Sau đó, ông đến Mỹ Tho mở trường dạy đàn guitare tại gia. Lên lại Sài Gòn năm 1960 học thi tú tài và lập gia đình tháng 1 năm 1962.

Duyên Anh bắt đầu viết truyện ngắn và thơ đăng trên tờ Chỉ Đạo. Truyện đầu tiên đăng trên tập san này là Hoa Thiên Lý. Những bài thơ đầu tay cũng trên tạp chí Chỉ Đạo như Bà mẹ Tây Ninh, Em Tôi. Đồng thời ông viết cho tờ Gió Nam của Liên đoàn công chức cách mạng quốc gia. Sau đó làm việc tại Tổng nha thanh niên, biệt phái làm tại tòa soạn tờ Chiến Đấu, cơ quan ngôn luận của Thanh niên cộng hòa của cố vấn Ngô Đình Nhu cùng với nhà văn Tam Lang Vũ Đình Chí. Sau cùng, Duyên Anh trở về Tổng nha thanh niên làm việc ở sở Tuyên huấn.

Sau vụ “chỉnh lý” đầu năm 1964, Duyên Anh cộng tác với nhật báo Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm. Từ nay Duyên Anh sống bằng ngòi bút và viết phiếm luận vì muốn đả phá bất công xã hội. Năm 1967 chủ bút tuần báo Con Ong của Minh Vồ sau khi đã cộng tác với nhật báo Sống của Chu Tử và từ năm 1968 với nhật báo Công Luận của tướng hồi hưu Tôn Thất Đính. Ông cũng viết cho nhật báo Tin Báo của Nguyễn Mạnh Côn là người đã khuyến khích giúp đỡ Duyên Anh ở bước đầu văn nghiệp. Năm 1968, Duyên Anh chủ trương tuần báo Búp Bê sau khi đã phụ trách trang Búp Bê cho nhật báo Công Luận. Sau đó, ông chủ trương các tuần báo Tuổi Ngọc (1969-1975) và Người (1970), tuần báo chuyên trào lộng chính trị, cũng như nhà xuất bản Tuổi Ngọc. Từ sau 1971, ông giã từ nghề nhật báo vì nghĩ không thể trở thành ký giả chuyên nghiệp lý tưởng, rồi phận “con sên già lùi bước” khi cạn vốn đã phải biến tuần báo Tuổi Ngọc thành bán nguyệt san. Trước đó ông đã từng bị chế độ kiểm duyệt không cho viết tiếp các phóng sự Tiền Mẽo, Sến Việt trên báo Sống. Ông muốn trở lại làm nhà văn của tuổi thơ và của tình người trong không khí lãng mạn thuần túy của dân tộc như lời giới thiệu trong Nước Mắt Lưng Tròng.

Ông ký Duyên Anh và Duyên Anh Vũ Mộng Long khi viết văn, ký Thương Sinh, Thương Anh, Bếp Nhỏ, Mõ Báo, Vạn Tóc Mai, Thập Nguyên,… khi viết báo và làm chủ báo. Bút hiệu Duyên Anh là tên một bản nhạc của một người bạn cùng lớp, bút hiệu được dùng để nhớ người bạn ở lại miền Bắc sau 1954.

Tác phẩm Duyên Anh trước 1975 gồm các chủ đề : tình yêu quê hương, tuổi thơ, tuổi trẻ và xã hội. Những truyện đầu tay Duyên Anh đã viết trong hoàn cảnh xa quê nhà và nghèo khó, ông đã viết với “niềm xúc động thật tình”. Dù không thành công về số lượng sách bán được (Hoa Thiên Lý in 1500 bán được 400, Thằng Vũ in 2500 ế dài, nhà phát hành không bán vì tên truyện không hấp dẫn). Nhưng vài năm sau, tiểu thuyết của ông được tiêu thụ mạnh: Hoa Thiên Lý được tái bản nhiều lần và nhiều cuốn mỗi lần xuất bản in đến 5, 6 ngàn bản. Có lẽ sự thành công khiến ông viết dễ dãi sa đà “để nói những gì muốn nói” do đó đã thiếu chăm sóc, dài dòng và hay trùng điệp. Trong Cây Leo Hạnh Phúc chẳng hạn, ông đã để “thằng Đốm”, một đứa bé, nói: “Thôi thôi, con nhất định không lấy vợ đâu. Lấy vợ khổ thấy mồ, phải ăn cơm ở nhà hoài hủy. Không lấy vợ đi ăn cơm tiệm đều đều, xem xi nê mỗi ngày…” (tr. 455). Duyên Anh hay đem chuyện và người thật vào tiểu thuyết – như là nơi để ông nói về bạn bè, điểm thơ văn hay hành cử, nói tốt thì thường, nhưng khi nói xấu thì sao không gây thù chuốc oán. Đọc tiểu thuyết của ông, người đọc dễ đoán được diễn biến và cả kết thúc vì thường tác giả theo một khuôn luân lý hoặc mẫu người. Ông đã dễ dãi kỹ thuật, tình tiết đơn sơ dù ông tràn ngập chi tiết và hợp tan cũng dễ dàng.

Trong hơn hai mươi năm văn học miền Nam, Duyên Anh đã là một trong số những hiện tượng văn học. Hiện tượng trước hết vì ông viết nhiều, sau vì ông có hẳn một chủ trương làm văn học và có đường lối văn chương của ông. Viết nhiều và các tác phẩm về sau có khi hay lập lại, có khi trích dẫn thơ văn quá độ. Nếu trong nhiều tiểu thuyết xã hội ông liên tục tấn công cái Ác và đề cao tình người hay cái Thiện thì trong bộ truyện Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ, Duyên Anh liên tục làm sống cái xã hội và con người hiền hòa, thơ mộng. Hiện tượng vì sau hết, dù thành công, Duyên Anh vẫn tiếp tục chân thành với người đọc, không huênh hoang, tự cao hay thay đổi lối viết.

Ông cũng đã cố gắng tách rời Thương Sinh nhà báo trong văn chương dù có khi yếu ớt. Duyên Anh đã thành công trung thành với người đọc của ông. Chính cái trung thành hỗ tương này làm nên thành công cho tác giả Thằng Vũ, ông trở thành hiện tượng, đại diện cho một giá trị nào đó, trở thành thân thiết, thành cái không thể thiếu, cái tất yếu, phải đọc; người đọc như đồng hóa với nhân vật và xã hội tiểu thuyết của ông, có khi gần mà như xa vì dù đơn sơ, bình dị, thế giới đó, tỉnh lỵ Trà Lý hay Sài Gòn, nhân vật đó – những thằng Vũ, con Thúy, em tôi, Trần Đại, Châu Kool,… vẫn như xa cách, lý tưởng quá chăng, hài hòa quá chăng – là những cái hiếm có trong xã hội thật. Mộng và thực như đời sống, ở nơi đây nhưng mơ mộng cái lý tưởng và xa xôi. Nếu thế giới thằng Côn con Thúy ở tỉnh lỵ quá đẹp, nên thơ, đáng mộng mơ thì thế giới Trần Đại hay Danh Lựa đánh giày,… quá tàn nhẫn; nhưng ở cả hai xã hội đó, cái ước muốn sống Thiện, sống đời bình thường có cha mẹ gia đình vẫn ở đó, vẫn là cái xương sống, cái lõi của những bầy nhầy khốn nạn trên bề mặt.

Khi viết, Duyên Anh đã biết đối tượng của tác phẩm ông: viết cho những người như ông, mơ và sống một cuộc đời bình thường trong đó người đối xử với người với thành tâm, viết cho những người muốn sống bình thường nhưng vì nhiều hoàn cảnh đã không thể được, đã bị bứng ra khỏi thế giới đó. Duyên Anh đã không thuộc vào loại nhà văn viết cho mình hay viết để mà viết hay viết mà không cần người đọc, loại văn nghệ sĩ không tưởng, làm dáng, viễn mơ xa người đọc. Ông cũng không đề ra những câu hỏi nhân sinh hóc búa, những lý thuyết cho tương lai xa tầm với. Ông giới thiệu với người đọc những mảnh đời đẹp, có thể thần tiên, có thể khốn khổ. Tác phẩm của Duyên Anh cũng là những trả lời những gì người đọc có thể muốn biết, về cuộc đời, về con người.

Khác với các nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng,…, Duyên Anh chưa hề diễn thuyết hay lập ngôn về văn chương của ông. Trong một cuộc gặp gỡ với các sinh viên Văn khoa Sài Gòn ngày 6-3-1972 do linh mục Thanh Lãng trưởng ban Việt văn tổ chức, Duyên Anh đã tâm sự : “Không ai thấy trong tiểu thuyết của tôi những tiếng thét hãi hùng, cô đơn, thân phận làm người,… Tiểu thuyết của tôi kết thúc vẫn là tình của con người với con người. Tôi không vô thần nhưng không tin Thượng đế, chỉ tin ở con người. Sự an bình của con người không do Thượng đế mà do con người”.

Trong một phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh (tức Nguyễn Xuân Hoàng) trên tạp chí Văn năm 1972, Duyên Anh xác nhận thêm ông “chỉ ca ngợi Tình Người. Tôi không dấn thân, chẳng viễn mơ,… Tôi không thích theo đuổi hẳn một khuynh hướng nào…”. Đó có thể cắt nghĩa việc Duyên Anh không được giới làm văn chương ở miền Nam trước và sau 1975 xem là nhà văn lớn bên cạnh Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ,… Sách ông xuất bản ít có bài phê bình giới thiệu và hơn 12 năm làm văn học đã chỉ có vài bài phỏng vấn, một số Văn Học đặc biệt về “thế giới tuổi thơ” của ông và một cuốn tiểu luận Duyên Anh, Tuổi Trẻ, Mộng Và Thực (1972) của Huỳnh Phan Anh.

Có thể nói ngoài vài cuốn tiểu thuyết về du đãng và trẻ bụi đời, toàn bộ tác phẩm đã xuất bản trước 1975 của Duyên Anh là chính cuộc đời và con người Duyên Anh. Những kỷ niệm, tình tiết, không gian và nhân vật đã được lập lại ở nhiều tác phẩm. Nói như tác giả, ông “bị ám ảnh bởi dĩ vãng, kỷ niệm và vùng trời quê hương nhỏ bé của (ông)”. Duyên Anh đã nhìn nhận đó là một nhược điểm vì ông “chưa đủ tuổi để đi xa, để thoát ly khỏi kỷ niệm, dĩ vãng và vùng trời thân thuộc của mình”.

Tác phẩm : 50 cuốn trước 1975, liệt kê theo thứ tự năm xuất bản: Hoa Thiên Lý (1963), Thằng Vũ (1965), Luật Hè Phố (1965), Điệu Ru Nước Mắt (1965), Dấu Chân Sỏi Đá (1966), Dũng Đakao (1966), Ảo Vọng Tuổi Trẻ (1967), Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa Hoang (1967), Gấu Rừng (1967), Cỏ Non (1967), Bồn Lừa (1967), Nặng Nợ Giang Hồ (1968), Tuyển Truyện Tuổi Thơ (1968), Ngày Xưa Còn Bé (1968), Mây Mùa Thu (1968), Cầu Mơ (1969), Con Suối Ở Miền Đông (1969), Ánh Mắt Trông Theo (1969), Ánh Lửa Đêm Tù (1969), Trường Cũ (1969), Thằng Côn (1969), Tuyển Truyện Duyên Anh (1970), Mơ Thành Người Quang Trung (1970), Nhà Tôi (1970), Lứa Tuổi Thích Ô Mai (1970), Tuổi Mười Ba (1970), Mặt Trời Nhỏ (1970), Rồi Hết Chiến Tranh (1970), Chương Còm (1970), Đàn Bà (1970), Giặc Ô-Kê (1971), Kẻ Bị Xóa Tên Trong Sổ Bụi Đời (1971), Nước Mắt Lưng Tròng (1971), Châu Kool (sau viết thành truyện phim Trần Thị Diễm Châu, 1971), Áo Tiểu Thư (1971), Hưng Mập Phiêu Lưu (1971), Tên Một Loài Hoa Quê Hương (1971), Ngựa Chứng Trong Sân Trường (1971), Con Thúy (1971), Thằng Khoa (1972), Về Yêu Hoa Cúc (1972), Phượng Vĩ (1972), Thư Tình Trên Cát (1973), Đêm Thánh Vô Cùng (1973), Cám Ơn Em Đã Yêu Anh (1974), Bò Sữa Gặm Cỏ Cháy (1974), Sa Mạc Tuổi Trẻ, Hạ Ơi, Hôn Em, Kỷ Niệm, Cây Leo Hạnh Phúc (1974) và Tháng Giêng Ngon Như Một Cặp Môi Gần (1-1975) là tác phẩm cuối cùng xuất bản trước ngày 30-4-1975.

Trích bài viết của tác giả Nguyễn Vy Khanh


Last edited by LDN on Fri Oct 14, 2022 9:17 am; edited 1 time in total

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sat Sep 24, 2022 5:45 pm

Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần (Nguyễn Du)


Nhớ: 25 năm ngày mất nhà văn Duyên Anh

Huỳnh Phan Anh
4 tháng 2, 2022 - Sài Gòn nhỏ 

Nhà văn Duyên Anh, mấy ngày 6 Tháng Hai, 1997 tại Pháp.
Nhà văn Duyên Anh, cây bút tài hoa của nền văn chương tự do trước năm 1975, người được đánh giá là mang trong mình hai “phiên bản” đối lập: Một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ắp tình người; và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm người ghét bỏ với những bài viết thẳng thừng và cay độc. Nhân 25 năm ngày mất nhà văn Duyên Anh (6 tháng Hai, 1997) xin gửi đến quý vị bài viết (trích) tóm lược về cuộc đời và cái nhìn tĩnh lặng và sâu sắc của dịch giả Huỳnh Phan Anh, một văn tài khác cũng đã qua đời (1940-2020) tại California, Hoa Kỳ.

Duyên Anh, anh là ai?

Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long như chính ông đã không ngần ngại ký kèm theo bút hiệu của mình. Ông sanh năm 1935 tại Thị xã Thái Bình, nhưng theo lời ông, lại được khai là đẻ ở làng Trường An là quê cha của ông, thuộc huyện Vũ Tiên, Thái Bình. Chính vùng quê hương Thái Bình này đã xuất hiện phẩm tự thuật… Vùng quê hương đó đã được dựng lại, đẹp hơn bao giờ hết, trong bộ trường thiên tiểu thuyết mang tên Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ.

Ông đã theo học nhiều trường. Những năm tiểu học, ông không học hết niên học ở một trường nào vì cứ phải đổi trường theo sự xê dịch của cha. Chỉ có năm lớp Ba (Élémentaire), năm 1942, ông mới được học trọn niên khóa ở trường Phụ Dực. Những ngày ở đây đã để lại nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm bàng bạc trong các truyện ngắn đầu tay của ông (Khúc Rẽ Cuộc Đời, Hoa Thiên Lý) trong các tác phẩm tự thuật (Trường Cũ) cũng như trong nhiều tác phẩm viết ở ngôi thứ ba (Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ, Tuổi Mười Ba…). Nếu mỗi người viết văn đều đã trải qua một đoạn đời hay một kinh nghiệm nền tảng mai đây không ngừng ám ảnh, có thể nói rằng thời thơ ấu sống trong khung cảnh buồn thiu của tỉnh lỵ chính là hình ảnh đậm đà nhất, thân mật nhất của tác phẩm cũng như của tâm hồn Duyên Anh.

“Năm sau tôi bỏ trường Bà Sơ. Nhưng vừa học trường tiểu học thị xã được hai tháng thì nhà tôi dọn về huyện lỵ Phụ Dực. Huyện lỵ thật nghèo nàn. Quanh thành quan huyện, giây bìm leo kín. Những mái nhà tranh, những ngọn đèn dầu và tiếng trống trên chòi canh buồn làm sao ấy. Ngôi trường huyện của tôi buồn hơn”.

Đời sống huyện lỵ thật nghèo nàn và nhất là thật buồn tẻ đã tạo cho ông một bối cảnh, một màu sắc tâm hồn. Đời sống đó, vẻ buồn đó đã dạy cho ông những bài học mơ mộng đầu tiên, những bài học mai đây còn tiếp tục in sâu vào tâm hồn ông, còn tiếp tục bàng bạc trong tác phẩm ông, một cách nào đó, nó mở ra cho ông những cánh cửa, những chân trời. Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ đã cống hiến cho người đọc những trang sách đẹp nhất của Duyên Anh, những trang sách làm sống lại một vùng trời quê hương quen thuộc, một đoạn đời với những giấc mơ và những rung động tuyệt vời của tâm hồn tuổi nhỏ:

“Mùa hạ năm nay thật buồn tẻ. Hoa phượng vẫn… nhưng màu hoa không rực rỡ. Tại học trò đã nghỉ học trước hè, nghỉ từ tháng ba chết đói. Loài ve sầu rên rỉ mỏi miệng cũng chẳng ai thèm cảm xúc. Có lẽ mùa hạ sang năm sẽ buồn tẻ hơn. Côn hồi tưởng những mùa hè năm xưa mà thương tiếc”

“Hai đứa trẻ mong đợi thầy chúng nó trở về. Thái, thầy chúng, chắc chắn, sẽ chở về những mộng ước ấp đầy những con mắt chúng. Hai đứa trẻ thị xã không muốn âm thầm sống trong cái đai bình thản. Nó muốn thoát ra. Nỗi thèm khát của chúng bộc lộ rõ rệt. Bây giờ mới đúng lúc khung cảnh cảnh buồn nản của tỉnh lỵ không thích hợp với chúng nó”.

Phải chăng đoạn đời đó, vẻ buồn đó đã tạo cho Duyên Anh một ngòi bút thơ mộng? Năm 1944 Duyên Anh rời huyện lỵ Phụ Dực, về thị xã Thái Bình. 1945, chứng kiến cảnh chết đói tháng ba Ất Dậu, cảnh Nhật đảo chánh Pháp rồi cuộc tổng khởi nghĩa. Như bao nhiêu đứa trẻ lớn lên trong cao trào cách mạng, Duyên Anh đã là một nhi đồng chống Pháp, biết thù hận Pháp gây chiến ở Nam Bộ và đã tham gia cách mạng một cách hồn nhiên, phấn khởi. Những cuốn chuyện Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy đã làm sống lại giai đoạn lịch sử này với những nhân vật thuộc lứa tuổi của chính Duyên Anh thời bấy giờ (lên 9, lên 10…) đã sống, đã cảm nhận bằng tất cả tâm hồn ngây thơ trong suốt của chúng, như nhà văn Mai Thảo đã nói:

“… Những sự việc của thế giới và xã hội người lớn như đổi dời, cách mạng đói kém, mất mùa, chân phù lính Tàu, và lưỡi lê Nhật, hết thảy đều được nhìn, sống, nhận thức, phán đoán, tiếp thu bằng những trái tim lên mười. Qua cái lăng kính luân lý, đạo đức phơi phới hồn nhiên, trong vắt và đôn hậu nhất của tuổi thơ”.

1946, khi Pháp gây chiến ở Hà Nội, Duyên Anh tản cư về Tiền Hải và theo học trường Huyện.

1947, đậu Sơ học bổ túc và học Thành Chung ở Trình Phố thuộc Kiến Xương (quê hương của Trương Quỳnh Như).

1948, về quê nhà ở Trường An. Trốn nhà đi làm liên lạc viên cho bộ đội một năm. Sau đó lại trở về Trường An.

1959, Pháp chiếm Thái Bình. Hồi cư về thị xã. Chứng kiến cảnh càn quét của lính viễn chinh Pháp. Học trung học tỉnh.

1952, lên Hà Nội, học Trung học đệ nhị cấp. Duyên Anh học đến năm 1954 thì vào Nam sau khi đã trở về Thái Bình sống ba tháng trong bầu không khí giải phóng tiếp thu. Ông di cư vào Sài Gòn một mình. Sống vô tích sự tại Nhà Hát Tây. Ông đã ghi lại những ngày này trong Áo Tiểu Thư, những ngày đầy thơ mộng và hồn nhiên của thời mới lớn mặc dù những khó khăn về vật chất. Chính trong giai đoạn này, Duyên Anh bỏ học vì không được ai chu cấp.

Đến giữa năm 1955, ông lên Ban Mê Thuột. Suốt ngày hạ cây, cưa ngắn, bổ nhỏ, gánh ra thị xã bán để mưu sanh. Nhưng thực ra ông theo đảng Duy Tân, lên đó mưu chống chính phủ Ngô Đình Diệm (Ảo vọng tuổi trẻ). Cũnghính ông từng thú thật về chuyện đi làm “cách mạng” này, là “đói quá theo bừa và một phần cũng vì mơ mộng tuổi vừa lớn mà”. Quá nửa năm làm chiến sĩ cách mạng bất đắc dĩ, ông tự thấy không đẹp bằng nhân vật Dũng trong tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, nên bỏ về Saigon, sống nhờ trên kho chứa đồ cũ của hãng dệt ở đại lộ Trần Hưng Đạo, sau đó sống nhờ với một người bạn làm cán bộ chấm công. Ông đã kể lại những ngày này trong hồi ký Làm Báo.

“Chúng tôi sống ở ngoại ô Hòa Hưng trong một xóm điếm tồi tệ. Xóm điếm thấp hơn mặt đường cả thước. Lên xuống y hệt leo thang. Căn nhà mướn của một me Tây lụp xụp. Mái lá. Tối ngày chuột khiêu vũ. Cạnh nhà có con lạch chảy ra cống thành phố. Thuở ấy lính viễn chinh Pháp chưa chịu về nước. Xóm điếm tấp nập. Đêm nào cũng xảy ra vụ kiếm tục, bố ráp và lính viễn chinh “chơi lường”. Điếm chạy lính huỳnh huỵch. Điếm chửi lính viễn chinh ồn ào. Đầy rẫy thảm cảnh và nghịch cảnh của một xã hội về chiều… Tôi thương nhất là những đứa trẻ con lai da trắng, da đen. Những đứa trẻ không có quê hương, tổ quốc ấy cũng là những đứa trẻ không có tuổi thơ. Mười tuổi chúng đã biết ghếch cớm, gác cảnh sát, hễ thấy cảnh sát vào xóm là báo động cho bọn tú bà. Sống ở xóm điếm, ở cái vũng bùn tối cùng cực, tôi đã nghĩ phải viết một thiên phóng sự nhan đề Xóm Quốc Tế”.

Cũng trong khoảng thời gian này, đời sống vật chất đã đưa đẩy Duyên Anh tới nhiều hoàn cảnh nổi trôi, rày đây, mai đó, hết nghề này lại chuyển sang nghề khác để sinh nhai. Hết lang thang với người sơn đông mãi võ, ông nhập đoàn cải lương lưu diễn miền Tây (Mây Mùa Thu). Ông lại trở về Sài Gòn, làm nghề giữ xe đạp hội chợ; quảng cáo cho đoàn xiếc Woong Bang Phu ở sân bóng Tao Đàn. Dạy học tư gia. Ông đã từng sống dưới chân cầu Tân Thuận với người đồng hương đạp xích lô, sống lẫn lộn trong một xã hội bần cùng nhất với những cảnh bất công ngang trái hàng ngày diễn ra oan nghiệt gấp ngàn lần những cảnh đời trong tiểu thuyết Nguyên Hồng. Chung đụng với đủ hạng người: Phu bến tàu, phu xích lô, buôn gánh bán rong, đánh giày, bán báo, ăn cắp, du thủ du thực…, ông đã “sống với họ, sống như họ”.

Nếu Duyên Anh chưa viết thiên phóng sự mang tên Xóm Quốc Tế như ông đã từng nghĩ tới thì chính ông đã viết hơn một cuốn truyện dài mang nặng màu sắc phóng sự xã hội, nói về những cuộc đời, những cảnh sống đầy tối tăm, nghịch cảnh (Luật Hè Phố, Điệu Ru Nước Mắt…) và trên phương diện này nhiều người đã không ngần ngại gọi ông là một nhà văn xã hội. Điều đáng nói ở đây chính là Duyên Anh đã sống, trực tiếp hay gián tiếp những cảnh đời mà ông đã viết.

Để tiếp tục theo dõi những bước chân của Duyên Anh. Năm 1957, ông rời Sài Gòn, rời bỏ “miền bất hạnh không có nổi ánh điện câu để thấy nó hắt hiu, vàng vọt”. Ông cùng người bạn xuống Mỹ Tho mở lớp dạy đàn sáo lấy tên là Hương Duyên (Cầu Mơ). Thất bại. Ba tháng sau, trở về Sài Gòn. Rồi lên Tây Ninh sống nhờ người quen, ngày ngày gánh nước tưới rau giúp bạn để có cơm ăn ở một trại định cư thuộc Trảng Lớn. Hãy nghe ông nhắc lại những ngày sống vô vị đó:

“Ở đây buồn lắm. Xong công tác tưới rau tôi thường ngồi trên cái nắp quan tài của trại hòm đánh cờ tướng giết thì giờ. Mỗi sáng sớm, xe đò về Saigon đều ghé qua, bóp còi inh ỏi. Tiếng còi như xé nát lòng tôi. Tuổi trẻ của tôi đành chôn chân ở một chỗ, nghe nỗi buồn đốt cháy hoa mộng. Đọc Một Chuyến Đi của Nguyễn Tuân tôi phát khóc”.

1958, Duyên Anh lại trở về Ban Mê Thuột. Rồi lại trở về Sài Gòn sau bốn tháng nằm ở cây số 4. Được đàn anh Duy Dân giới thiệu xuống Hòa Hảo dạy học tại một ngôi trường bán công, mỗi giờ được bốn chục bạc. Dạy được ba tháng bị đàn anh đuổi về vì dám dẫn đám học trò sang Tân Huề ăn thịt bò, thịt chó và đá bóng với học trò. Tội nặng nhất là dám mặc sà rông sang văn phòng lãnh lương. Duyên Anh ra Long Xuyên xin dạy ở Quang Trung. Nhưng rồi việc dạy học cũng không được bền bỉ ở đây. Hết niên khóa, ông bỏ về Sài Gòn, rồi lại lang thang khắp miền Tây và đói dài ở Sài Gòn. Lại trở về Hòa Hưng sống nhờ gia đình người bạn. Chính trong những ngày này, Duyên Anh đã tập tễnh những bước chân đầu tiên vào cuộc đời làm văn làm báo.

Đó vào khoảng 1960, Duyên Anh được nhà văn Trúc Sĩ tiến dẫn tới tạp chí Chỉ Đạo của Bộ Quốc Phòng. Sáng tác đầu tiên của Duyên Anh được đăng trên mặt báo này là một bài thơ nhan đề Bà Mẹ Tây Ninh. Tháng sau, Chỉ Đạo đang truyện ngắn Hoa Thiên Lý, sáng tác đầu tiên của ông được viết trong “một đêm mưa mù mịt chân cầu Tân Thuận” trong nỗi “nhớ nhà và thương tiếc tuổi thơ của mình”. Bút hiệu Duyên Anh cũng đã bắt đầu xuất hiện từ truyện ngắn mang hình bóng quá khứ và kỷ niệm đó. Ông có truyện ngắn đăng thường xuyên trên tạp chí Chỉ Đạo. Từ đó những chuyện sau này được gom lại thành tập truyện đầu tay của Duyên Anh với nhan đề Hoa Thiên Lý do nhà Giao Điểm ấn hành.

Chi tiết nổi bật nhất trong giai đoạn khởi nghiệp của Duyên Anh có lẽ là sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, lúc bấy giờ làm chủ bút Chỉ Đạo. Truyện ngắn Con Sáo Của Em Tôi được Nguyễn Mạnh Côn xếp vào “loại truyện đặc biệt”, được trả ngót năm ngàn bạc, số tiền nhuận bút được xem là rất cao vào thời đó, năm 1960, và được nhà văn này viết cho một cái “chapeau” nồng hậu. Duyên Anh cho đó là một hân hạnh ông chưa hề mơ tưởng tới. Một sự may mắn. Và:

“Nhờ truyện ngắn Con Sáo Của Em Tôi mà một số độc giả biết đến tôi và dành cho tôi nhiều cảm tình. Lần đầu tiên tôi nhận được bức thư của độc giả. Bức thư không một lời “ái mộ” chỉ vỏn vẹn một giòng ÔNG DUYÊN ANH, TÔI BẮT ĐỀN ÔNG ĐẤY, VÌ CON SÁO CỦA EM TÔI MÀ TẾT NĂM NAY TÔI BUỒN MUỐN KHÓC. Giòng chữ trách móc đó, tôi giữ thật kỹ. Thuở ban đầu mà. Bây giờ nhận được thư độc giả, tôi đọc vẫn còn xao xuyến nhưng không thể xao xuyến như thuở ban đầu”.

Nguyễn Mạnh Côn rời Chỉ Đạo, Duyên Anh bắt đầu viết cho các tờ báo khác: Sinh Lực của ông Lê Văn Thắng, Gió Nam của ông Lại Tư. Ông tiếp tục viết truyện. Sau đó, nhờ sự cất nhắc của ông Nguyễn Bích Liên, giám đốc tâm lý chiến của Tổng Nha Thanh Niên thời bấy giờ, Duyên Anh bắt đầu “làm công chức dễ dàng, thua phó đốc sự có vài trăm”. Một lần nữa, Duyên Anh thú thật là mình may mắn. Luôn luôn may mắn. Cũng như sau này, thành công với nghề văn, được liệt vào hàng tác giả có sách bán chạy nhất, ông vẫn thường cho rằng mình may mắn. Thánh cho lộc mà.

1962, Duyên Anh lấy vợ và tiếp tục làm công chức. Được biệt phái trông coi bán tuần báo Chiến Đấu cùng với nhà văn lão thành Tam Lang.

1963, bị trả về nhiệm sở cũ. Cũng năm này tập truyện Hoa Thiên Lý ra đời. Những ngày Phật giáo phát động cuộc đấu tranh, Duyên Anh ngồi ở sở hoàn thành Thằng Vũ, cuốn truyện dài đầu tay cũng là tác phẩm mở đầu cho bộ trường thiên tiểu thuyết Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ. Thằng Vũ được nhà văn Nguyễn Mạnh Côn khen hay và viết cho một bài giới thiệu nồng nhiệt.

1964, Duyên Anh rời bỏ nghề công chức đi làm nhật báo. Ông viết cho Xây Dựng, rồi Sống, Công Luận. Ông viết đủ các mục: Tiểu thuyết, phiếm luật, tường thuật… như ông đã từng kể lại khá tường tận trong hồi ký Làm Báo đăng tải trên Tuổi Ngọc. Ông làm chủ bút tuần báo Con Ong, viết “article de fond” cho báo này và đặc biệt ông đã viết gần hết các trang cho báo này trong những số đầu. Ông làm chủ nhiệm các tờ Người, Búp Bê, Tuổi Ngọc (bộ cũ). Chính trong khoảng thời gian thật sự sống với nghề báo (bên cạnh nghề văn), Duyên Anh đã tạo cho mình tên tuổi qua những truyện dài đăng báo được độc giả nhất là giới trẻ tiếp đón nồng hậu: Ảo Vọng Tuổi Trẻ, Điệu Ru Nước Mắt, Nước Mắt Lưng Tròng, Cầu Mơ, Trường Cũ, Nhà Tôi…

Và cũng chính trong khoảng thời gian này, với những thiên phóng sự đầy sự sống sượng, với những bài phiếm luận độc địa, ký dưới rất nhiều bút hiệu khác nhau như Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Thập Thành, Nả Cẩu…, Duyên Anh đã gây nhiều sóng gió, đã tạo nhiều tiếng tăm nhưng cũng đồng thời tai tiếng cũng không kém. Độc giả cũng như những người quen biết ít nhiều với ông vẫn thắc mắc không hiểu tại sao ở ông có thể dung hòa được hai hình ảnh con người hoàn toàn đối nghịch nhau: con người nhà văn luôn ca ngợi tuổi thơ trong sáng, mơ mộng và tình người, và con người nhà báo ngổ ngáo, độc điạ, bất chấp mọi sự. Về điểm này, người đọc có thể tìm đến câu trả lời của chính Duyên Anh trong phần “nói chuyện với Duyên Anh” ở những trang sau.

Có lẽ vì muốn chấm dứt những sóng gió cùng những ân oán giang hồ hoặc như ông đã thú thật để khỏi phải tiếp tục “đổ vỡ của mình trong sự nghiệp làm báo”, Duyên Anh từ giã nghề báo sau bảy năm vùng vẫy thật lực. Năm 1971, ông làm chủ nhiệm Tuổi Ngọc, “tuần báo của tuổi vừa lớn”, trông coi nhà xuất bản cùng mang tên Tuổi Ngọc và tiếp tục sự nghiệp nhà văn của mình, sự nghiệp đã mang đến cho ông một sự thành công không chối cãi, đã tạo cho ông một chỗ đứng biệt lập trong văn nghệ miền Nam của những năm 60.

Trên đây là những nét phác họa về cuộc đời của Duyên Anh, căn cứ trên chính những gì do Duyên Anh kể lại một cách trực tiếp hay gián tiếp, qua những bài viết của ông hay qua những câu chuyện của ông. Dĩ nhiên người ta không thể thu gọn một đoạn đời trên một số trang ngắn ngủi. Nhưng thiết tưởng bao nhiêu đó đủ để giới thiệu hình ảnh một đời người. Với nụ cười và nước mắt.

(…..)

Điều Duyên Anh không chối cãi là ông vẫn sống bằng kỷ niệm và ở mỗi chuyện của ông đều dàn trải ít nhiều kỷ niệm riêng. Sống như một cách chuẩn bị cho tác phẩm của mình. Tôi muốn nói: viết đối với Duyên Anh dường như là một cơ hội để tiếp tục sống, hoàn tất cuộc đời mình hãy còn dang dở ở ngoài những trang sách, ở ngoài những dòng chữ. Trước khi thể hiện những tính cách mơ mộng và lý tưởng trong tác phẩm của ông, Duyên Anh đã từng thể hiện chúng vào cuộc đời của chính ông, một tâm hồn mang nặng căn bệnh của thời thơ ấu, của quá khứ, của kỷ niệm.

Tài hoa chữ nghĩa Duyên Anh

Đọc Duyên Anh, tôi luôn có cảm tưởng bắt gặp một hình ảnh, một thứ tiếng nói quen thuộc không ngớt trở về dưới ngòi bút của ông. Phải chăng đó là hình ảnh, là tiếng nói của tâm hồn ông mà chính ông đã không ngừng đánh mất và tìm lại được. Nhà văn không ngớt đồng hóa mình vào chính những nhân vật mình tạo nên. Nhà văn không ngớt viết lại đời mình đồng thời tra hỏi mãi mãi không thôi về chính tâm hồn mình. Tôi không có ý khẳng định rằng cuộc đời Duyên Anh đã là một tác phẩm hoặc tác phẩm Duyên Anh là phản ảnh trung thực và trọn vẹn của con người ông.

Cuộc đời và tác phẩm Duyên Anh là hai thực thể không ngớt đến gần với nhau và có thể không bao giờ trùng hợp hay tan biến vào với nhau (vả chăng điều này có thể chỉ là một ảo tưởng). Trong ý nghĩa đó, cuộc đời không bao giờ là tác phẩm cũng như ngược lại. Nhưng nếu không thay thế cho nhau, chúng vẫn có thể là cơ hội của nhau. Tác phẩm Duyên Anh không ngớt tìm cách thu ngắn khoảng cách với tâm hồn của tác giả, với thế giới kỳ diệu của mộng mơ và kỷ niệm, với nguồn suối khôn cùng không tận đó.

Duyên Anh là một người viết truyện đúng hơn là một người kể truyện. Có lẽ không phải vô tình mà ông đã ghi chú dưới những tựa sách của ông bằng “tập truyện” hay “truyện dài” thay vì tiểu thuyết, đoản văn hay tùy bút. Sự kiện này cho thấy đặc tính nổi bật, sở trường của ngòi bút Duyên Anh thể hiện qua những câu truyện, dài hay ngắn, của ông. Nói cách khác, Duyên Anh đã mặc nhiên chọn lựa cho mình một cách viết và từ đó một thế giới, một vũ trụ. Với ông, dường như viết trước tiên có nghĩa là kể. Viết tức là kể truyện. Viết tức là kể lại một cái gì, nói lên một cái gì cho người đọc. Ông không chú trọng tới vấn đề làm văn. Ông không đặt nặng vấn đề sáng tạo văn chương. Ông không có tham vọng chinh phục người đọc bằng một bút pháp tân kỳ hay quyến rũ.

Duyên Anh trước tiên (và sau cùng?) chỉ là một nhà văn của những câu truyện được dựng lên, những nhân vật được tạo thành, những tình tiết, những nhân vật được đặt ra và giải quyết. Có lẽ vì nhờ đó mà người đọc có thể đi thẳng vào tác phẩm của ông một cách dễ dàng không phải vượt qua những bức rào kiên cố của ngôn ngữ. Ngôn ngữ ở đây chỉ còn là phương tiện tác giả dùng để chuyên chở hay gởi gấm ý tưởng hay rung động của mình tới người đọc.

Để nói theo một cách nói bây giờ, ta có thể xem Duyên Anh là một người dùng chữ, một người sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện, một công cụ. Rõ ràng quá, ông không viết để thí nghiệm hay tra hỏi ngôn ngữ. Ông viết để kể chuyện đời sống, đời sống trăm mặt, ông bắt gặp dưới mắt, trong tầm tay, cũng là đời sống muôn màu muôn vẻ xuất hiện trong hồi tưởng hay dự tưởng của ông. Hơn là một nhà văn của những câu truyện kể, Duyên Anh đã làm nổi bật tính cách tự thuật trong hầu hết tác phẩm của ông. Đọc Duyên Anh, người ta dễ dàng bắt gặp một hình ảnh cố định, bá chủ mà ông vẫn không ngớt trở về đào sâu, hình ảnh của chính ông với những kinh nghiệm ông từng biết tới, sống qua.

Truyện ngắn đầu tiên của ông Hoa Thiên Lý là một thiên tự thuật với những rung động và xúc động thật chân thành của một tâm hồn nghiêng về quá khứ. Bước đầu tiên cũng là bước định đoạt. Hẳn Duyên Anh đã tìm thấy con đường của ông ngay trong thử thách đầu tiên đó. Những tác phẩm sau này của ông đã lần lượt mở rộng cái thế giới vừa manh nha thành hình trong truyện ngắn đầu tay đó. Có thể nói với Duyên Anh, mỗi cuốn sách đều đánh dấu một chặng đường của chính ông. Mỗi cuốn sách, nói một cách nào đó, là một phần đời ông đã biết tới, sống qua, một phần đời còn hứa hẹn trở về không ngớt trong hồi tưởng.

Và mặc dù ông chưa từng ghi chú cho tác phẩm ông là hồi ký hay tự thuật bao giờ, người ta vẫn có thể đi tới kết luận rằng tác phẩm Duyên Anh đã được xây dựng một phần lớn từ những chất liệu sống. Thực chất của một đời người. Tác phẩm Duyên Anh không là tiểu thuyết, không là một thứ “sản phẩm” thuần túy của trí tưởng tượng. Nó chính là hình ảnh của cuộc đời, và của kinh nghiệm. Quá khứ và kỷ niệm luôn luôn chiếm giữ một địa vị quan trọng trong tác phẩm Duyên Anh. Viết, điều này cũng có nghĩa là hồi tưởng. Viết điều này cũng có nghĩa là nhớ lại chính mình, tra hỏi quá khứ của mình, soi sáng tâm hồn của mình. Ở Duyên Anh dường như không có một khoảng cách khốc liệt giữa cuộc đời và tác phẩm, giữa sống và viết. Trái lại ông đã thể hiện được một sự liên tục, một sự hòa hợp giữa kinh nghiệm sống và kinh nghiệm viết. Ông viết như một cách kéo dài đời sống, kêu gọi đời sống. Ông viết như, một cách nào đó, ông đã sống.

Do đó, tiểu sử Duyên Anh, con người thật của Duyên Anh, tâm hồn của Duyên Anh, tất cả sẽ giúp cho người đọc không ít trong việc tìm hiểu tác phẩm của chính Duyên Anh đã viết trong ám ảnh của những đoạn đời đã mất, trong tình yêu mến quá khứ và kỷ niệm. Trong khắp các tác phẩm Duyên Anh đều bàng bạc những hình ảnh, những chất liệu thật của chính đời sống Duyên Anh. Và người đọc nếu cần, có thể gom góp những hình ảnh, những chất liệu đó thành một tác phẩm duy nhất và tác phẩm đó chính là cuộc đời thật của Duyên Anh vậy.

Tác phẩm trường thiên mang tên Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ chỉ là một cái nhìn say đắm gửi về một quá khứ thân yêu đã mất, trong đó tác giả gặp lại chính mình, gặp lại những tâm hồn tí hon đã từng san sẻ với ông đoản đời kỳ diệu dưới bầu trời kỳ ảo của quê hương Thái Bình. Áo Tiểu Thư, Trường Cũ, Cầu Mơ, Mây Bay Đi, Luật Hè Phố… tất cả đều đánh dấu một đoạn đường, một tâm trạng của chính tác giả. Tất cả đều mang ý nghĩa một cuộc kiểm điểm. Mỗi cuốn sách là một cơ hội để tác giả nhìn lại, sống lại đoạn đời đã mất. Mỗi cuốn sách là một cuộc thăm dò quá khứ, hạch hỏi kỷ niệm. Có thể nói rằng Duyên Anh đã “sống” khá trọn vẹn những cảnh đời hay đoạn đời thể hiện trong tác phẩm của ông.

Hầu hết các nhân vật của Duyên Anh đều thể hiện một đặc tính nền tảng, một mẫu số chung luôn luôn mang họ đến gần với nhau, ràng buộc họ vào nhau. Đó là những con người mơ mộng mà thực tế cuộc đời dù gay gắt đến đâu vẫn không hủy hoại nổi những khát vọng luôn âm ỉ trong tâm hồn họ. Duyên Anh có thể tạo nhiều nhân vật với những lai lịch và tên tuổi khác nhau nhưng ông đã chỉ gán cho họ một tâm hồn, một tiếng nói duy nhất. Muốn soi sáng tâm hồn đó, muốn lắng nghe tiếng nói đó, có lẽ người đọc phải trở về với truyện ngắn đầu tay của Duyên Anh, trở về với câu chuyện đầy quá khứ và kỷ niệm, trở về với “bài học đầu tiên về tình người”, người xưng “tôi” trong truyện.

Ở Duyên Anh, cuộc đời và tác phẩm kinh nghiệm sống và chữ nghĩa luôn tìm cách đến gần nhau, bổ túc cho nhau. Chắc chắn không phải là điều tình cờ khi Duyên Anh viết ở ngôi thứ nhất trong rất nhiều tác phẩm của ông. Đọc Duyên Anh tức là một cách nào đó tìm đến cái “tôi” của Duyên Anh, cái “tôi” mà chính Duyên Anh không ngớt trở về, cái “tôi” không ngừng xuất hiện trên những trang sách của Duyên Anh, một cách lộ liễu hay kín đáo và cùng xuất hiện quen thuộc, tất cả trở nên một vũ trụ thân mật, gần gũi.

Ngay trong cách đặt tên cho nhân vật, dường như Duyên Anh cũng muốn nhắc nhở người đọc cũng như chính mình, về những cái tên có thật, những “nhân vật” đã từng tham dự vào chính cuộc đời của ông, hay ít ra đó là những cái tên, những nhân vật có thật trước khi là sản phẩm của tưởng tượng. Nói một cách nào đó, Duyên Anh không viết tiểu thuyết, ông tiểu thuyết hóa cuộc đời, hay chính ông đã từng sống thực những đoạn đời thể hiện trên những trang sách của ông.

Những Vũ, những Côn (trong Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ), những Long (trong Áo Tiểu Thư, Ngày Xưa Còn Bé…), những Hoài (trong Cầu Mơ, Tàn Một Loài Hoa, Quê Hương…), những Định (trong Ngựa Chứng Trong Sân Trường)…, tất cả những nhân vật “tiểu thuyết” đó nếu không là những phản ảnh trung thực từ những chất liệu sống thực nhất của cuộc đời tác giả, ít ra đã được xây dựng từ những chất liệu sống thực nhất của cuộc đời đó.

Trừ những tác phẩm đầu tiên, có thể nói Duyên Anh luôn ký tên thật của mình kề bên bút hiệu: Duyên Anh Vũ Mộng Long. Sự kiện tuy nhỏ nhặt nhưng không kém phần hàm xúc. Thông thường các nhà văn hoặc ký bút hiệu hoặc ký tên thật của họ và điều này không hẳn chỉ là một sở thích tình cờ hay đơn giản. Dù muốn dù không, sự lựa chọn giữa bút hiệu và tên thật để ký dưới tác phẩm luôn thể hiện một thái độ rõ rệt: Lựa chọn cái này tức là phủ nhận cái kia. Lựa chọn cho mình bút hiệu nhà văn, mặc nhiên bôi xóa tên tuổi thật của mình. Lựa cho mình một bút hiệu nhà văn đương nhiên tự cho mình có hơn một đời sống, hơn một thân phận: Ở hẳn con người nhà văn với một tên tuổi riêng có thể không ngó ngàng gì tới con người.

Thí dụ: Nhất Linh, tác giả Đoạn Tuyệt, Bướm Trắng có thể không nhất thiết phải dung hòa, trùng hợp khít khao với con người Nguyễn Tường Tam, nhà cách mạng. Và người ta không thể độc đoán dùng quan điểm hành động của nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam để soi sáng vũ trụ mộng tưởng, phi thực của nhà văn Nhất Linh, cũng như ngược lại. Bởi hai thân phận có thể khác biệt và nếu cần mâu thuẫn chống đối nhau trong cùng một con người: con người Nhất-Linh, Nguyễn-Tường-Tam (tôi dùng nét gạch ở giữa bút hiệu và tên thật để nói lên một trạng thái chia lìa, theo tôi, có tính cách cần thiết trong một giới hạn nào đó).

Khác với nhiều nhà văn khác, Duyên Anh không ngần ngại ký thêm tên thật của mình ở ngay dưới bút hiệu. Giữa nhà văn và con người thật, không còn mâu thuẫn. Giữa tác phẩm và cuộc đời, không còn chia lìa hay xung đột. Viết tức là dung hòa, là kết hợp thực tế và mộng tưởng, cuộc đời và tác phẩm. Phải chăng ngay từ truyện ngắn đầu tay của mình, Duyên Anh đã từng thể hiện ước muốn đó, kinh nghiệm đó, ước muốn và kinh nghiệm mai đây sẽ còn tiếp tục thể hiện qua từng tác phẩm, qua từng trang sách của ông.

(………..)

Tôi nghĩ hẳn Duyên Anh đã phải tin ở chữ nghĩa cũng như tin ở chính đời sống lắm mới có thể tạo nên một dòng truyện phong phú và thống nhất đến như vậy. Tôi không thấy ở tác phẩm Duyên Anh một bóng dáng hoài nghi hay thất vọng nào. Ông đã viết cũng như ông đã từng sống, với tất cả tâm hồn trong sáng và mơ mộng của mình. Do đó với trường hợp Duyên Anh, thiết tưởng người ta không thể chỉ tìm hiểu phần tác phẩm mà bỏ quên phần đời sống mà tác giả vốn là yếu tố không thể tách rời, yếu tố quyết định của chính tác phẩm, như chính ông đã gián tiếp nói lên trên các trang sách của ông.

Tác phẩm của Duyên Anh

Ông đã xuất bản hơn năm mươi tác phẩm văn chương. Sau năm 1975, ông bị coi như “một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của Việt Nam”. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.

Ông được tự do nhờ Amnesty International và Pen Club International can thiệp. Vượt biển sang Pháp, ông viết lại và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư đại học Sorbonne coi Duyên Anh là “nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia”.

Chưa một người Việt Nam nào tạo nổi sự vinh dự cho dân tộc ở tư thế lưu vong như Duyên Anh. Tự tin vào tài năng và sự phấn đấu của chính mình, ông đã bước lên mọi nghịch cảnh, bước qua mọi oan khiên để giành một chỗ đứng trên vũ trụ văn học quốc tế như một tiểu thuyết gia đầy đủ tư cách. Nhà thơ Hà Huyền Chi nhận xét về tài năng của Duyên Anh: Duyên Anh viết văn, Duyên Anh viết nhạc, Duyên Anh làm thơ. Con người tài hoa ấy đã lưu lại đằng sau hằng hà những dấu ấn của thành tựu ở mọi lãnh vực anh đã kinh qua.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sat Sep 24, 2022 5:52 pm

Thời Xưa

Tiểu thuyết của nhà văn Duyên Anh – Những mảng ký ức không thể nào quên

Biên tập viên 

Duyên Anh (1935 – 1997) là một nhà văи, nhà thơ, nhà báo hoạt động tại miền Nam Việt Nam từ trước những năm 1975 và hải ngoại sau năm 1981. Ông đã xuất bản hơn năm mươi tác phẩm văи chương trước năm 1975: “Hoa Thiên Lý”, “Thằng Vũ”, “Luật Hè Phố”, “Điệu Ru Nước Mắt”, “Dấu Chân Sỏi Đá”, “Ảo Vọng Tuổi Trẻ”, “Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa Hoang”,…..và tác phẩm cuối cùng được hoàn thiện vào tháng 1/1975 mang tên “Tháng Giêng Ngon Như Một Cặp Môi Gần” kết thúc quá trình hoạt động trong nước của tác giả Duyên Anh trước sự kiện 30/04/1975 diễn ra.

Năm 1975, sau khi kết thúc tác phẩm sau cùng đó, Duyên Anh bị coi là “một trong những nhà văи nguy hiểm nhất Việt Nam”, ông bị chế độ mới nghiêm cấm viết ʟách và ra lệnh bắt giam không xét xử ông suốt sáu năm trời từ các nhà  тù qua đến trại tập huấn. Mãi sau, nhờ sự can thiệp của Amnesty International và Pen Club International ông mới lấy lại được sự tự do. Vượt bao nhiêu hải lý để đến với trời Pháp, Duyên Anh bắt tay vào viết lại và cho xuất bản hơn hai mươi tác phẩm. Báo chí, đài phát thanh thời điểm đó ca ngợi ông hết lời, bút mực viết về ông cũng tốn không biết bao côɴԍ sức. Đến cả sử gia Piere Chaunu cũng khen ngợi ông nói rằng – Duyên Anh là một nhà thơ, một niềm vinh quang của quốc gia. Có thể nói, “tự cổ chí kim” chưa có một người Việt Nam nào có thể vinh danh cho dân tộc trong tư thế lưu vong như Duyên Anh. Tự tin, nỗ lực phấn đấu, ông từng bước từng bước bỏ lại nghịch cảnh phía sau lưng, vén từng bức màn oan khiên mà giành lấy cho mình một chỗ đứng vững chắc trong vũ trụ văи học như một tượng đài của một nhà tiểu thuyết gia với đầy đủ tư cách.

Nhà văи Duyên Anh
Những tác phẩm của ông hầu hết đều là truyện dài, chỉ trừ “Hoa Thiên Lý”, “Tuyển Truyện Tuổi Thơ”, “Tuyển Truyện Duyên Anh” là những tập truyện ngắn. Và tác phẩm “Kẻ Bị Xóa Tên Trong Sổ Bụi Đời” tuy có hình thức là một tuyển tập với nhiều truyện ngắn nhưng thực tế nó lại là những trích đoạn được trích ra từ những tiểu thuyết của cнíɴн ông.

Duyên Anh là một nhà văи bình dị đúng nghĩa khi đem chuyện đời và người thật vào trong cнíɴн tác phẩm của mình – Với ông văи chương tiểu thuyết chỉ đơn thuần là một “hội bàn đào” để ông bàn về bạn bè, hành cử văи chương thế nào cho hay, cái tốt nói làm sao cho bình thường không lố lăиg, còn cái xấu nói thế nào để không gây thêm thù oán bất kỳ ai. Khi đặt bút xuống viết, Duyên Anh đã có thể nắm bắt được người đọc của mình là ai: Là người như ông, không cầu cao sang quyền quý, chỉ cần bình thường qua ngày, là những người cũng muốn sống cuộc đời bình dị nhưng hoàn cảnh lại không cho phép nên đã bứng họ ra khỏi thế giới yên bình đó. Duyên Anh không phải loại nghệ sĩ làm dáng làm ᴅuyên, viết nên những câu chuyện không tưởng, đặt viễn cảnh xa xăm cho người đọc; ông cũng không đề ra những triết lý nhân sinh cao vời hay những giả tưởng về tương lai ngoài tầm với. Ông chỉ giới thiệu đến người đọc những mảnh đời đẹp, sẽ có những cô tiên lung linh hiện ra giúp đỡ, cũng có những khốn khổ thử thách lòng người. Cái mà ta đọc được ở tiểu thuyết Duyên Anh cнíɴн là câu trả lời về cuộc đời, về con người và về tình cảm.

Những đề tài chủ yếu trong tác phẩm tiểu thuyết của Duyên Anh:
1. Tình yêu quê hương đất nước – yêu gia đình:
“Hoa Thiên Lý” là tác phẩm đầu tay của Duyên Anh được viết vào thời điểm trước 1/11/1963 khi nhà văи đang ở тнảм cảnh khốn khó. Chỉ vỏn vẹn 10 tập truyện nhưng lại là bước ngoặt thành côɴԍ cho Duyên Anh trên con đường văи chương, không chỉ là nội ᴅung mà còn là ngôn từ được sử dụng. Sau sự thành côɴԍ đó cнíɴн là sự ra đời của nhiều tác phẩm sau này, văи chương của những ký ức xa xôi, những tuổi thơ đã bị đánh mất, hay những quá khứ được kiếm tìm về đời người xưa cũ.

“Hoa Thiên Lý” không đơn giản là nỗi niềm thương nhớ về mẹ, mà nó còn là nỗi lòng và sự yêu thương cần có trên đường đời mà tác giả mong được dàn trải. Sự nhung nhớ, mong mỏi tìm về – “tôi đi tìm thương yêu trong màu hoa thiên lý, đi tìm những bà Mẹ biết kể chuyện tâm tình, đi tìm cô bé thả mắt trong mơ dưới giàn cây…”, và nó cũng là nỗi buồn khi chia cách – “Giàn thiên lý quê nhà giờ đây đã héo khô tàn tạ. Loài ve sầu không rủ rê mùa hạ sang nữa nên họ hàng nhà bọ ngựa cũng cнếт hết vì buồn. Ở ngoài ấy, người ta cấm không cho ai buồn, không cho ai nhớ, không cho ai thương nhau thì dễ gì mẹ tôi đã được ngồi dưới giàn hoa thiên lý mà kể chuyện cho tôi nghe” (Trích từ Hoa Thiên Lý, Tr.22-23).

Truyện “Hoa Thiên Lý” là tác phẩm đầu tay, lại được viết trong hoàn cảnh khốn cùng của một kẻ lưu lạc, nên trong  нồi ký Nhà Báo, Duyên Anh đã từng chia sẻ: Sống trong hoàn cảnh тнảм thương khốn cùng nên ông đâm ra nhớ nhà кнủиɢ khiếp. Không chỉ nhớ mẹ, nhớ nhà mà còn nhớ về những tuổi thơ, những lưu luyến khôn nguôi về ký ức đã cũ. Một đêm mưa gió mù mịt dưới chân cầu Tân Thuận, mất ngủ vì mái nhà bị dột mưa, nơi nào cũng lạnh lẽo, nên ông đã thức suốt một đêm và hí hoáy viết nên tuyệt phẩm Hoa Thiên Lý.

Ngoài ra, các truyện ngắn như “Con Sáo Của Em Tôi”, “Em”, hay “Vòng Tay Của Một Người”….tuy được viết về tình yêu nhưng lại chỉ là cái cớ, cái cớ để từ đó nhà văи Duyên Anh gợi nhớ về hình ảnh nơi quê nhà, mơ bản thân được trở về với những dĩ vãng xưa, được sống và được  нồn nhiên. Đến với “Trẻ Thơ Và Bụt”, “Khúc Rẽ Cuộc Đời”,…Duyên Anh lại vẽ nên một khung cảnh tuổi thơ chịu nhiều ảnh hưởng cuộc đời bởi những тнảм kịch nhân sinh, tạo nên bi kịch của một thời niên thiếu.

2. Tuổi thơ cùng những hoài niệm:
“Tuổi ngọc” là độ tuổi được Duyên Anh chăm chút rất kỹ trong sự nghiệp văи chương của ông. Đầu tiên phải kể đến bộ tiểu thuyết “Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ” gồm 6 quyển cho khung cảnh tỉnh lẻ Thái Bình từ những năm 1944 – 1954. Thằng Vũ được bắt tay vào viết khi Duyên Anh bước vào những năm cuối cùng làm côɴԍ chức trước 1/11/1963. Tuổi thơ của những đứa trẻ trong thế cнιếɴ, тнảм cảnh  тù đày, bạo động hay sự phản trắc, chia cách của những vùng tiếp thu. Bộ truyện này nói lên nỗi thất vọng trong tâm của tác giả khi nhìn đến cảnh tượng cнιếɴ тʀᴀɴн triền miên, khi ngắm nhìn cảnh hoàng hôn mộng mơ nhưng tình người lại xám xịt, lạnh lẽo từ tâm – hững hờ đến vô cảm – “Điều tôi định nói lên trong Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ là con người có thể xây dựng lại tất cả, nhưng sự đổ vỡ về tình người thì không thể xây dựng lại được” – Con người có thể gầy dựng được quê hương sau sự đổ vỡ của chinh cнιếɴ, nhưng làm sao xây lại được nhân cách con người nếu đã bị nung nấu và biến chất theo thời gian.

Rồi đến “Dzũng Đa-Kao”, “Bồn Lừa”,…tuổi thơ mới lại được mở ra nhưng vào thời điểm đương đầu cùng cнιếɴ тʀᴀɴн Nam – Bắc, tuổi thơ của những đứa trẻ muốn làm anh hùng dân tộc. Tuổi thơ của những đứa trẻ hư hỏng ở nơi vỉa hè được đưa vào trường học, hay có khi là niềm mơ ước của những đứa trẻ mong được hết nghèo khổ, được khoác áo học trò để đến lớp. Cũng có khi tuổi thơ trong truyện Duyên Anh là giấc mơ của những đứa bé lang bạt được có mái ấm gia đình, được ăи mặc đẹp, được cấp sách đến trường như bao  bạn đồng trang lứa.

Cái tuổi thơ trong truyện của Duyên Anh nói riêng hay của văи chương Việt Nam nói chung là tuổi thơ của mọi người, là một phần trong đời sống của mỗi con người chúng ta. Nó là những ký ức được lưu giữ lại có ảnh hưởng trực tiếp đến phần đời người lớn, phần đời trưởng thành với chí hướng và mục tiêu sự nghiệp của mỗi chúng ta.

Dù nghịch phá hay hư hỏng, ghẹo chọc thầy cô, chọc phá bạn bè, thích hát ca, thích đánh lộn, chẳng xem việc học ra gì, nhưng dĩ vãng vẫn có lúc quay trở lại ngôi trường mà yên vị trên ghế để lắng nghe bài giảng. Mùa hè được về quê ngoại thả diều, vui chơi trong “Phương Vĩ”; hay thời thơ ấu của một cậu bé nhà nghèo bên cạnh con đường “oan nghiệt” của người cha qua tác phẩm “Hôn Em” – “Kỷ Niệm”; hay sự hoài niệm về một quá khứ không được trở thành một học trò gương mẫu, sự hối hận gián tiếp trong “Trường Cũ”;…..Và mãi đến  нồi ký “Nhìn Lại Những Bến Bờ”, Duyên Anh đã kể lại cho bạn đọc nghe những phí  нồi tuổi xuân của bản thân mình, ông đã không trân trọng nó như thế nào.

Điểm tạo nên sự đặc biệt của văи chương tuổi nhỏ cнíɴн là lối ngôn ngữ bình dị, gần gũi,  нồn nhiên lại trong sáng. Và Duyên Anh đã trở thành một hiện tượng tiêu biểu bởi những tác phẩm của ông chiếm trọn trái tim của người đọc. Đến nhà thơ Trần Tuấn Kiệt cũng phải côɴԍ nhận: Hình ảnh tuổi trẻ từ thiên đường đến đất hứa trong từng tác phẩm của Duyên Anh, không chỉ là những mộng mơ hay sự phục sinh kỳ diệu của thuở thiếu thời, mà nó còn tái hiện được những phẫn uất trong sự lầm than của một vùng nhân thế.

3. Thanh xuân và những иổi loạn tuổi trẻ:
Duyên Anh xuất bản những tác phẩm về chủ đề tuổi trẻ ngay thời điểm miền Nam đang xây dựng và tổ chức những phong trào thanh niên học sinh sinh viên do cнíɴн quyền đệ nhất và đệ nhị cộng hòa phát động. Cũng thời điểm đó, kẻ thù cùng thừa cơ mà tiến vào với âm mưu độc chiếm đất nước ta. Tuổi trẻ lại rủ nhau mà đầu quân tham cнιếɴ, xuống đường diễu hành chống độc tài, chống cнíɴн khách xôi thịt,…mong muốn đòi lại hòa bình, giải phóng đất nước.

Nếu mảng đề tài tuổi thơ, Duyên Anh mang những câu chuyện thực của mình cùng lũ bạn vào tiểu thuyết, thì ở tuổi trẻ, ông lại kết hợp tất cả những kinh nghiệm cá nhân từ trước đến nay: từ thời mới vô Nam, đến lúc đi làm báo rồi vào côɴԍ chức.

Trẻ bụi đời và ᴅu  đãɴԍ được Duyên Anh phân ra làm hai khuynh hướng rõ rệt. “Luật Hè Phố” và “Dấu Chân Sỏi Đá” được kể viết về những đứa trẻ mồ côi, những đứa trẻ bụi đời không cha không mẹ, không gia đình người thân. Chúng là những đứa trẻ đánh giày, bán vé số, lượm nhặt ve chai,…chúng không có quyền lựa chọn cuộc sống. Nhưng dù vậy, chúng vẫn biết cách để sinh tồn, nghèo khó vẫn biết đùm bọc và bảo ban nhau và vui sống.

Về phần tiểu thuyết ᴅu  đãɴԍ được Duyên Anh nhấn mạnh: “Tuổi trẻ bơ vơ, thèm xả thân cứu giúp đời, mà rốt cuộc tinh thần hào hiệp biến thành tinh thần ᴅu  đãɴԍ”. Không phải chỉ một lần mà thậm chí là nhiều lần khác nữa, tỷ như trong tiểu thuyết “Điệu Ru Nước Mắt”, Duyên Anh gọi những người trẻ thuộc thành phần này là “những thằng trong sạch nhất trong xã hội” hay ca ngợi tinh thần ᴅu  đãɴԍ “xã hội ᴅu  đãɴԍ cũng ăи đứt xã hội đạo đức giả”, “ᴅu  đãɴԍ nhiều thằng lương thiện gấp bội những thằng to tiếng đòi giáo dục ᴅu  đãɴԍ”. Với ông, ᴅu  đãɴԍ không đồng nghĩa với người xấu, nó ᴅu  đãɴԍ chỉ vì chứng иổi loạn lúc cô đơn; hay иổi loạn tâm  нồn vì sự bất mãn với gia đình, với nhà trường, với xã hội; hay nặng hơn là sự căm thù cuộc đời vì cнíɴн cuộc đời, cнíɴн những con người nhân đức đã xem nó như một thằng ᴅu  đãɴԍ, nó khinh miệt cuộc đời đầy sự giả dối này.

Những nỗi loạn bắt buộc, những nỗi loạn mà bản thân người trong cuộc không hề có sự lựa chọn trong “Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa Hoang” hay một tình yêu không khoảng cách, không cấp bậc giữa Mường Lác và gái điếm Alice Hồng trong “Nước Mắt Lưng Tròng”. Nhưng có thế nào thì tất cả những nhân vật này đều kết thúc cuộc đời mình trong sự khốn cùng và bi тнảм. Một chiếc xe chạy hết côɴԍ suất cùng tốc độ, đèn pha được mở chiếu sáng cả một khoảng trời đã đè nghiến lên đầu của một con người. Chiếc xe đã mất hút vào màn đêm, vụt qua con phố khác trong tích tác, chỉ để lại Mường Lác cô độc phơi tây giữa bầu trời. Một con người ɢιếт người không gớm tay lại bị xóa sổ khỏi danh sách bụi đời bằng một cách tầm thường đến bi thương.

Xã hội luôn có những luật lệ riêng của nó, nhưng những nhân phẩm hay đức tính tốt đẹp như đùm bọc, yêu thương nhau, chia sẻ,…vẫn luôn được con người ta gìn giữ. Có những tuổi trẻ vì hoàn cảnh ép buộc mà trở thành ᴅu  đãɴԍ, nhưng khi hoàn lương học lại trung học, có người còn giỏi ԍιᴀɴԍ đậu cả tú tài Pháp. Du  đãɴԍ nhưng khi đất nước cần sự trợ giúp, họ vẫn sẵn sàng nhập ngũ mà thi hành hiệu lệnh như những côɴԍ dân thời cнιếɴ bình thường khác. Nhân vật Trần Đại trong “Điệu Ru Nước Mắt” là một tên đại ca ԍιᴀɴԍ  нồ nhưng lại được đàn em James Dean Hùng khen rằng: “Anh Trần Đại được làm tướng đi đánh nhau với cộng sản, chắc chắn anh ấy thương lính của anh ấy như thương chúng mình, anh ấy lại cừ nữa, cộng sản cứ gọi là hết ngáp…”. Một thằng ᴅu  đãɴԍ đúng nghĩa lại thương người hơn những tên đạo mạo giả dối, mở miệng là lấy dân làm đầu, thương dân như con nhưng trong tâm thì đã bán nước cầu vinh từ thuở nào.

Khi được hỏi tại sao lại viết về chủ đề này nhiều như thế, Duyên Anh đã trả lời rằng: Tại thời điểm sáng tác “Điệu Ru Nước Mắt” thì đất nước mình đang rơi vào tình huống thù “thù trong ԍιặc ngoài” loạn hết cả lên, các tướng lãnh thì đảo cнíɴн đánh nhau, người tướng này bắt ɢιếт người tướng kia, người tương anh hùng hôm nay thì mai lại thành tướng gian lừa đảo. Dưới góc nhìn của một nhà văи, ông chỉ cảm thấy chán nản và bất lực, chẳng có gì đáng ca ngợi một xã hội như thế cả. Thế là ông đem ᴅu  đãɴԍ ra ca ngợi, đem một góc tối của xã hội phơi bày trước mặt mọi người về những điều tốt đẹp mà ai ai cũng có cái nhìn sai lệch.

Không những thế, Duyên Anh còn ca ngợi tuổi trẻ ᴅu  đãɴԍ bằng ánh nhìn trìu mến và hiểu biết, đôi lúc ông lại mang tâm trạng phẫn nộ của mình vào tiểu thuyết như “Ảo Vọng Tuổi Trẻ”: “Hình phạt nào mới xứng đáng cho một tên lừa gạt tuổi trẻ, cho những tên làm ung thối một thế hệ mới vươn lên để tìm chỗ đứng cho dân tộc dưới ánh mặt trời”.

Sau sự ra đời của “Điệu Ru Nước Mắt”, “Trần Thị Diễm Châu”, “Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa Hoang”, “Sa Mạc Tuổi Trẻ”, nhà văи Duyên Anh đã không còn theo đuôi những câu chuyện ԍιᴀɴԍ  нồ ᴅu  đãɴԍ nữa. Ông trở về với tuổi thơ, nuôi lại tâm  нồn bằng những tình yêu nho nhỏ của “Mây Mùa Thu”, “Cầu Mơ”,…Tình yêu trong Duyên Anh cũng được chia ra nhiều thể loại nhỏ khác nhau: Từ tình yêu của tuổi thơ đến lứa tuổi học trò, từ tình yêu chốn bụi đời đến những cuộc hôn nhân vợ c нồng. Bước đầu là những mối tình vụn dại, giữa nét  нồn nhiên và ngây thơ trong “Trường Cũ”, “Thằng Côn”,…Tình trong trắng và ngây ngô của lứa tuổi học trò “thập thò dưới gốc cây gần cổng trường” đợi chờ người thương nhỏ, nàng e thẹn – chàng ngượng ngùng rồi cùng nhau thả bước ngược đường về họ. Tiếp đến lại là những câu chuyện tình yêu tan vỡ nhưng lại đẹp đến vô tội vạ – Tình yêu vốn trong trắng nhưng dần đà lại trở lên vụ lợi và đầy toan tính, những thủ đoạn với cuộc đời được áp dụng cho cả tình yêu.

Nếu Duyên Anh là một người kém may mắn trong tình yêu thì vào tiểu thuyết ông đã bù đắp lại bằng những câu chuyện tình ngọt ngào và cái kết có hậu. Giống như tiểu thuyết “Về Yêu Hoa Cúc” – Đó là câu chuyện tình yêu mùi mẫn giữa nàng sinh viên và chàng nhà thơ, hai người đã ngọt ngào mà “…đi bên cạnh cuộc đời, ái ân nhạt nhẽo của c нồng tôi”.

Khi viết về chủ đề tình yêu, Duyên Anh không đi quá sâu vào tâm lý nhân vật, với ông con người yêu nhau rất dễ dàng hoặc là trong một hoàn cảnh khó khăи nào đó như cái “định mệnh an bài” thì cuối cùng họ cũng yêu và đến với nhau thôi. Và những nhân tình trong tiểu thuyết tình yêu của ông cũng chẳng có gì phức tạp hay sâu xa, nên người đọc cũng không cần phải chuẩn bị tâm lý.

4. Xã hội đương thời:
Do nhu cầu nghề báo và mưu sinh kiếm sống nên Duyên Anh chấp nhận viết về chủ đề này. Tiểu thuyết của Duyên Anh trong ký ức chúng ta thường là những câu chuyện Thái Bình, Hà Nội từ trước những năm 1954 và những chuyện về miền Nam vào năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, nhưng xã hội loạn lạc miền Nam thời cнιếɴ vẫn được ông đề cập đến: nó là một xã hội chỉ toàn sự mưu mô, tính toán, là xã hội của những kẻ mạnh ức hiếp người yếu.

Trong tác phẩm “Cảm Ơn Em Đã Yêu Anh”, Duyên Anh đã vạch trần một xã hội miền Nam với nhiều bộ mặt mâu thuẫn và nghịch lý: một xã hội dư thừa và phóng  đãɴԍ, một xã hội chỉ biết dụ lợi trong khi cнιếɴ тʀᴀɴн vẫn đang bủa vây cả trong lẫn ngoài và cái cнếт vẫn đang chực chờ không biết khi nào sẽ đến.

Lối hành văи và ngôn ngữ trong tiểu thuyết:
Ngôn ngữ của Duyên Anh rất bình dị và gần gũi với cuộc sống thường ngày của chúng ta, không trừu tượng cũng chẳng phức tạp. Nhưng cái hay của ông là chỉ dùng một từ ngữ nhưng lại hàm chứa rất nhiều hình ảnh và tầng ý nghĩa: “Khi mắt mẹ phảng phất khói hương mơ mộng thì lại là lúc phải khóc nhiều vì cô độc đαυ thương. Pháo cưới thi nhau đổ nát tan  lòng mẹ. Màu áo đỏ, áo xanh bỗng nhiên ngả màu tang tóc như muốn lịm chung cuộc đời người con gái chưa đầy hai mươi xuân. Những con bươm bướm đa tình chẳng chịu ghé hoa vườn тнuốc độc nên mẹ già cỗi và gần như xa hẳn nhân gian.” (Trích từ Hoa Thiên Lý. Tr.18).

Một ngôn ngữ hợp với đại đa số tác phẩm của Duyên Anh và toàn bộ lại có thể xem như một câu chuyện kể dài tập. Trong  нồi ký “Nhìn Lại Những Bến Bờ”, Duyên Anh đã kể lại cho bạn đọc việc ông đã học cách viết giản dị và trong sáng từ nhà giáo Trần Trọng Kim trong Quốc Văи Giáo Khoa Thư và Luân Lý Giáo Khoa Thư như thế nào. Vào năm 1972, được dịp trao đổi với sinh viên, có người đã so sánh ông cùng nhà văи Mai Thảo, những tác phẩm của ông được nhìn nhận là “có nghệ thuật viết” rất lôi cuốn và thu hút người đọc. Nhưng ông lại khiêm tốn mà tự nhận mình chẳng phải là nhà viết tiểu thuyết. Ông nói rằng: Tiểu thuyết đúng nghĩa phải được xây dựng bởi nhiều tình tiết khác nhau, còn ông chỉ có vài quyển truyện được gọi tạm là tiểu thuyết mà thôi, còn về sau ông lại đem những cái thực tế vào truyện, đem văи chương nói lên những điều bản thân muốn nói. Vậy nên người ta gọi ông là nhà văи là không đúng, mà gọi là tiểu thuyết gia cũng sai, ông chỉ đơn thuần là một người viết văи, viết nên cảm xúc và suy nghĩ của bản thân mà thôi.

*  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *  *

Trong một thời gian dài, Duyên Anh trở thành một tượng đài văи học vì những tác phẩm của ông đáp ứng đúng và đủ nhu cầu của thời đại – thời điểm cнιếɴ тʀᴀɴн đang leo từng bậc, cả xã hội rơi vào sự кнủиɢ hoảng từ văи hóa đến đời sống thì những tác phẩm của Duyên Anh lại như một ngọn đèn thắp sáng giữa trời đêm u tịch – nó mang chí hướng giáo dục, đáp lại hoàn toàn những mong muốn đó. Đừng nghĩ là sẽ tìm thấy những thứ triết lý siêu hình hay những điều viễn tưởng trong tác phẩm của Duyên Anh. Tại đây, chúng ta chỉ thấy được tiếng nói của đời sống thường ngày, những hình ảnh chân thật hóa từ nhà giáo đến cha mẹ và những đứa trẻ bụi đời.

Có thể nói ngoài vài cuốn tiểu thuyết viết về những đứa trẻ bụi đời hay viết về một xã hội ᴅu  đãɴԍ thì toàn bộ những tuyệt phẩm còn lại trước năm 1975 đều được kể nên bởi cнíɴн cuộc đời của nhà văи Duyên Anh. Có những kỷ niệm, những tình tiết câu chuyện hay những khung cảnh lẫn nhân vật cũng được ông lặp lại ở nhiều tác phẩm. Ông từng nói bản thân bị ám ảnh bởi dĩ vãng, bởi những kỷ niệm và khoảng trời rộng lớn nơi vùng quê ông từng sinh sống khi thuở nhỏ. Và ông cũng tự nhận bản thân chưa đủ tuổi để trải đời để đi xa, chưa đủ thời gian để thoát ly được những cái gọi là dĩ vãng, hoài niệm, và không đủ can đảm để thoát ra vùng trời thân thuộc của bản thân ông.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sat Sep 24, 2022 6:01 pm


Hoàng Hải Thủy: NHỮNG NGƯỜI ĐỌC DUYÊN ANH

Văn Học – Số 149 tháng 6 năm 1972

Một ngày rất gần đây, đúng ra là cách đây một tháng, tôi có dịp nói chuyện với một thiếu phụ duyên dáng ái mộ tiểu thuyết và thích gặp những người viết văn. Những ai quá mê tiểu thuyết thường mê luôn cả người viết những tiểu thuyết làm mình say mê. Họ tưởng tượng ra người viết như những siêu nhân hoặc phải hào hoa phong nhã, tình tứ lắm, căn cứ trên những tác phẩm mà nhà văn đó viết. Theo như kinh nghiệm của tôi, thường thì những cuộc tìm gặp này giữa người viết và người đọc chẳng đưa các đương sự đi tới đâu, ngoài việc làm cho người đọc thất vọng vì người viết không giống với mẫu người hào hoa mà họ tưởng tượng và người viết bị mất một số thì giờ vô bổ.

Người thiếu phụ độc giả tôi nói tới đây là người Huế. Và đàn bà Huế có lẽ là những người đàn bà đa tình nhất ba miền Việt Nam. Nàng nói với tôi là nàng lãng mạn và nàng mê tiểu thuyết lắm. Nàng là nữ sinh Đồng Khánh và nàng nói đến Duyên Anh:

– Thời còn đi học, em mê tiểu thuyết Duyên Anh lắm. Lạ kỳ là cả lớp em có 45 đứa thì cả 45 đứa đều mê tiểu thuyết Duyên Anh. Em mê đọc Duyên Anh suốt thời gian em còn đi học, đến khi em lấy chồng, có con thì em hết mê đọc Duyên Anh. Bây giờ đôi khi em cũng đọc những truyện mới của Duyên Anh nhưng em không còn thấy hấp dẫn em như trước nữa…

Tôi cũng nghe nhiều người trưởng thành khác nói với tôi về tiểu thuyết Duyên Anh: “Truyện của hắn có gì lạ đâu mà nghe nói bán chạy quá vậy??” Những lời phê bình này về Duyên Anh làm cho tôi thấy rõ ràng tiểu thuyết của Duyên Anh đúng là tiểu thuyết của tuổi thơ. Tuổi thơ và của tuổi học trò. Khi hết còn thơ ấu, khi hết còn là học trò, người ta không còn là độc giả của Duyên Anh nữa.

Như người thiếu phụ Huế nói trên đây về Duyên Anh. Thời nàng còn là nữ sinh cách đây đã 10 năm. Cả lớp học của nàng có 45 nữ sinh thì cả 45 nữ sinh đều mê tiểu thuyết Duyên Anh. Làm gì có nhà văn Việt Nam nào kể từ ngày Việt Nam có tiểu thuyết đến giờ, chiếm được số độc giả học trò đông đảo đến thế??

Người thiếu phụ đa tình mê tiểu thuyết ấy bây giờ đã có chồng, có con, nàng vẫn còn đọc tiểu thuyết nhưng nàng không còn đọc những tiểu thuyết viết về tuổi học trò của Duyên Anh nữa. Nhưng lớp thiếu nữ sau nàng, lớp em nàng, tiến lên thay thế nàng trong những học đường và lớp nữ sinh đó lại tiếp tục say mê đọc tiểu thuyết Duyên Anh. Khi nào nước ta còn những học đường và trong học đường còn những nữ sinh mơ mộng – mà nữ sinh nào mơ mộng chẳng nhiều thì ít, mơ mộng mà nghề của nữ sinh mà – ngày đó tiểu thuyết của Duyên Anh vẫn còn độc giả và do đó vẫn bán chạy.

Riêng trong gia đình tôi cũng có hai độc giả trung thành của Duyên Anh: một là con gái tôi, Kiều Giang, năm nay 16 tuổi, nữ sinh trường Nguyễn Bá Tòng, hai là đứa con trai út của tôi, Hải Triều 10 tuổi, học trường Mai Khôi. Mỗi lần thấy tờ Tuổi Ngọc giới thiệu một tiểu thuyết mới của Duyên Anh là Kiều Giang thúc tôi đến tòa soạn lấy về. Trong tủ sách riêng của Kiều Giang, tất cả những tiểu thuyết của Duyên Anh nằm ở chỗ trang trọng nhất. Mới đây chú Hải Triều cũng bắt đầu bầy tỏ sự mê đọc tiểu thuyết của Duyên Anh. Hải Triều cũng đòi tôi đi xin chú Duyên Anh những bản tiểu thuyết cho riêng chú. Chú không khoái đọc chung với chị Kiều Giang.

Ở Việt Nam, kể từ ngày có tiểu thuyết tới giờ, cũng có nhiều nhà văn viết về tuổi học trò lắm chứ? Nhưng vô tư mà nói, chưa ai được học trò mến và đọc nhiều bằng Duyên Anh. Tôi nghĩ rằng học trò, từ 10 tuổi tới 16, 17 tuổi, đều là độc giả của Duyên Anh. Và học trò con gái thường bỏ tiền ra mua tiểu thuyết hơn học trò con trai. Nam sinh có nhiều thứ giải trí cần dùng đến tiền hơn là nữ sinh. Và đó là điều giải thích tại sao tiểu thuyết của Duyên Anh lại bán chạy. Trong khi những tiểu thuyết khác của những người viết cũng nổi tiếng nhất nhì cõi đời này chỉ in được nhiều lắm là 5.000 quyển, bán được chừng 3.000 quyển trong mất tháng phát hành đầu đã được coi là chạy lắm. Những tiểu thuyết của Duyên Anh được in ở nhà in Nguyễn Đình Vượng lên tới 10.000 cuốn. Và những nhà phát hành Đồng Nai, Sống Mới sẵn sàng trả hết tiền trước để mua hết số 10.000 cuốn truyện đó của Duyên Anh, một việc mà họ rất ít chịu làm với những nhà văn khác. Nhiều nhà văn in sách ra đến năn nỉ họ mua dùm và vì cảm tình lắm, họ chỉ mua mỗi lần chừng 100 cuốn với lời hẹn nếu bán hết sẽ lại mua thêm.

Nhà phát hành không dại gì bỏ tiền ra mua tiểu thuyết để cất vào kho, mua với mục đích là làm cho ông bà tác giả đó hài lòng. Họ chỉ chịu mua khi tiểu thuyết bán được và họ có lời. Theo sự hiểu biết của tôi, cũng chưa nhà văn nào kiếm được nhiều tiền nhờ tác phẩm bằng Duyên Anh. Nhờ có tiền và có óc tính toán, không chịu để cho các nhà xuất bản đứng giữa bóc lột văn tài của mình, làm giầu trên tác phẩm của mình một cách phi lý, Duyên Anh, trong những năm gần đây, tự xuất bản lấy tác phẩm của anh và nhờ vậy, số tiền anh thu về tăng lên gấp bội. Riêng cuốn Nhà Tôi, Duyên Anh in lấy, bán lấy và thâu tiền lời chừng 1 triệu đồng. Đó là chưa kể số tiền 400.000 đồng bán bản quyền Nhà Tôi để quay phim. Cũng cuốn truyện Nhà Tôi ấy nếu anh đem bán cho nhà xuất bản, và nhất là nếu anh túng tiền, bản quyền tác giả nhà xuất bản trả chì nhiều lắm là 50.000 đồng. Và cũng quyển Nhà Tôi đó đem bán cho nhà làm phim, nếu Duyên Anh túng tiền và cần tiền “bao nhiêu cũng được miễn là chi ngay” như đa số chúng tôi, tiền bán cũng chỉ nhiều lắm là 100.000 đồng.

Tôi quen biết với Duyên Anh từ lâu lắm rồi, từ ngày anh mới bắt đầu viết tiểu thuyết ở nhật báo Xây Dựng và chưa nổi tiếng lắm. Sự giao du thân mật ấy giữa Duyên Anh và tôi kéo dài đã 10 năm. Thời đó chúng tôi cùng bắt đầu viết loại phim chửi bới trên nhật báo, anh ký tên là Thương Sinh và tôi ký Gã Thâm, và giữa Thương Sinh và Gã Thâm từng có lần chửi nhau trên báo tưng bừng.

Kể về tính xấu – nếu muốn – thì Duyên Anh có hơi nhiều, nhưng ta nên gọi đó là những khuyết điểm hơn là những tính xấu. Khuyết điểm nặng nhất của Duyên Anh, theo tôi, là anh thành công trong nghề văn quá sớm, quá dễ. Anh lại có tài viết hơn người nên anh cóc cần ai cả. Sự kiện này rất khó chịu cho những ai phải cộng tác với anh trong những tờ do anh chủ biên. Chúng tôi có cảm giác bị anh coi thường, có bài cũng được không viết cũng chẳng sao, anh ôm lấy viết hết. Do đó, anh không đối xử với anh em chúng tôi tốt bằng anh Chu Tử, anh Nguyễn Mạnh Côn. Sở trường của con người ta nhiều khi cũng chính là sở đoản. Bởi vì viết được hơn người. Duyên Anh chỉ là người viết tốt nhưng chưa phải là người chủ biên tốt. Tuy nhiên, hiểu rõ Duyên Anh hơn nhiều người, tôi tin rằng nếu Duyên Anh gặp nhiều thất bại tan tành như anh Chu Tử chẳng hạn, hoặc khi anh 50 tuổi như anh Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh sẽ quí anh em hơn vì thấy cần anh em hơn. Chỉ khi đó anh mới trở thành cái cột trụ vững chắc cho một tờ báo. Duyên Anh hãy còn trẻ lắm. Năm nay anh chưa tới 40. Tôi nghĩ rằng anh sẽ còn có dịp học hỏi nhiều ở đời.

Duyên Anh tự kiêu. Điều đó chẳng phải là bạn thân của anh ta cũng có thể biết. Phần nào sự tự kiêu của anh có lý. Với một số vốn học ít ỏi, một thân một mình di cư vào Nam, thời gian đầu vào Sàigòn anh phải sống trong Nhà Hát Lớn cùng với cả ngàn gia đình đồng bào di cư nghèo khác, mỗi gia đình chỉ chiếm được một cái chiếu. Duyên Anh, khi ấy chỉ là Vũ Mộng Long, đã phải làm nhiều thứ nghề lặt vặt để kiếm sống. Có lần tâm sự, và dường như chính Duyên Anh đã viết trên một hồi ký nào đó của anh, Duyên Anh nói với tôi rằng cho đến năm anh ngoài hai mươi tuổi, chưa bao giờ anh ôm mộng trở thành văn sĩ. Anh viết truyện ngắn vì một trường hợp ngẫu nhiên: Năm 1961, 1962 gì đó anh xin được một chân thư ký trong Nha Tổng Giám Đốc Thanh Niên thời đó do ông Cao Xuân Vỹ nắm. Nha này xuất bản 1 tờ nguyệt san với tiền của chính phủ, báo in ra phát không cho những ty Thanh Niên tỉnh và chàng thư ký trẻ tuổi được dùng vào việc ấn hành tờ báo. Chàng đọc bản thảo và thấy rằng thiên hạ viết dở quá, mình cũng có thể viết được như thế và chàng bèn viết. Rồi truyện ngắn đầu tay của Duyên Anh được nhà văn Nguyễn Mạnh Côn trang trọng đăng ở tờ Chỉ Đạo. Truyện ngắn này nếu tôi nhớ không lầm, là truyện “Con sáo của em tôi”, một truyện viết về tuổi thơ và loài vật, cũng giống như truyện “Chim hót trong lồng” của nhà văn Nhật Tiến.

Rồi cách mạng 63 cho hai anh em ông Ngô ra nghĩa địa và cho “Lãnh tụ Thanh Niên Cộng Hòa” họ Cao đi tù, và chàng thư ký Vũ Mộng Long được giới thiệu tới làm việc với linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ nhiệm nhật báo Xây Dựng. Thoạt đầu Duyên Anh viết tiểu thuyết trang trong. Những Luật Hè Phố, Dấu Chân Sỏi Đá, Điệu Ru Nước Mắt được sáng tác trong thời gian này. Rồi các nhật báo sau cách mạng đi vào thời kỳ chửi bới và vì nhu cầu, Duyên Anh viết thêm mục phim ở trang nhất ký tên là Thương Sinh. Tuy nhiên, mãi tới khi về cộng tác với tờ Sống của Chu Tử, cái tên Thương Sinh viết phóng sự nham nhở mới nổi bật lên và được cả nước biết.

Trong chàng trẻ tuổi Vũ Mộng Long có hai người viết: Duyên Anh và Thương Sinh. Hai người viết ấy khác hẳn nhau. Người viết Duyên Anh chuyên viết về tuổi thơ trong sáng, hồn nhiên, người viết Thương Sinh chuyên moi móc những chuyện bẩn thỉu của người đời, tàn nhẫn và sống sượng đến phát sợ. Nhưng người viết Thương Sinh chỉ là giai đoạn. Loại phóng sự nham nhở chỉ sống được trên những nhật báo và dù có viết hay mấy cũng không thể trở thành tác phẩm. Vũ Mộng Long biết rõ hơn ai hết điều đó và anh đã khai tử không tiếc thương con người Thương Sinh trong anh để chỉ còn sống với con người Duyên Anh.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sat Sep 24, 2022 6:08 pm

Hưng Việt

Duyên Anh, cuối đời

Đỗ Tiến Đức

Tối thứ sáu 29 tháng 9, 1995, tôi đến thăm Duyên Anh để xem ba cuốn sách mới nhất của anh vừa in xong mà anh mang từ Santa Ana về hồi chiều. Duyên Anh ở nhờ nhà một người bạn trong một chung cư ngay chợ Tàu Los Angeles. Anh ngồi ăn một mình. Anh chỉ dùng được một tay trái để xúc thức ăn và cơm đưa lên miệng. Cánh tay phải của anh bất động, buông thẳng trước ngực anh như một cành cây chết.

Tôi hỏi cho có chuyện :

- Dạo này bạn thích ăn cơm với món gì ?

- Canh thôi. Vì canh chan với cơm, xúc bằng muỗng ăn được dễ dàng là ngon rồi. Ăn một tay mà, dù mấy năm rồi nhưng vẫn khó nên tôi chỉ thích món gì có nước. Mà lại phải nấu nhừ nữa. Cái gì phải cắn, nhai thì khổ sở lắm, thành thử ngon thế nào được.

- Nhớ lại thì theo ý bạn, cơm Mỹ, cơm Tây, cơm Tàu, cơm Việt, cơm nào ngon hơn cả ?

- Úi giời, tôi thấy cơm Việt là số dách. Việt Nam có nhiều món ngon lắm. Ngay cả cách ăn của người Việt cũng đáng nói. Ở bên Tây ít năm, có dịp quan sát, tôi thấy người Pháp khi ăn thì đều cúi mặt nhìn chăm chăm vào dĩa đồ ăn để dưới bàn, còn người Việt thì khi ăn, vì cầm bát cầm đĩa mà nên khi ăn thì nhìn thẳng, nhìn ra ngoài.

- Thế thì theo ý bạn, sự nhìn thẳng của người Việt và sự cúi mặt khi ăn của người Pháp, nó mang cái triết lý gì ?

- Thì khi người ta để ý tới miếng ăn nhiều quá thì người ta coi cuộc đời sinh ra chỉ để ăn thôi. Trái lại, người Việt Nam mình, ăn thì nghĩ đến cái gì khác.

- Vậy bạn ở Paris được bao lâu rồi ?

- Từ 84 tới nay, nhưng tôi chưa ăn cơm Tây một bữa nào, chỉ cơm Việt Nam thôi.

- Ở Paris mười năm mà không ăn cơm Tây một bữa nào, thế thì Paris đối với bạn là vui hay buồn ?

- Chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Ở nơi nào cũng thế thôi. Mình là dân lưu vong mà...

- Nhưng Paris có cho bạn cảm hứng để sáng tác không ?

- Chẳng nơi nào cho tôi cái cảm hứng sáng tác cả.

- Nếu thế thì tại sao mấy năm qua bạn viết hăng thế ?

- Là như thế này : Tôi còn nhiều hơi thở của quê hương cho nên, tôi lại chịu nhiều đau khổ vì quê hương, thí dụ như mấy năm ngồi trong tù chẳng hạn, vào tù đối với một nhà văn thì cũng như đi nghỉ mát ấy, đi nghỉ mát thì có nhiều cảm hứng, đấy là những chất cay đắng mà tôi thấy cần phải viết lại. Tuy viết nhiều thế mà tôi vẫn cảm thấy chưa đủ, chưa nói hết những điều mà quê hương mình bảo mình phải nói.

- Đi tù khổ nhục chết chứ nghỉ mát nỗi gì !

- Mình là nhà văn mình cần nhiều cuộc giỡn chơi chứ. Giỡn chơi mới nảy ra những cảm xúc thực, không vay mướn, không tưởng tượng...

Tôi quen biết Duyên Anh từ năm 1954 khi chúng tôi cùng ở trong trại học sinh di cư nhà hát lớn Sài gòn. Hồi ấy bọn chúng tôi còn Đằng Giao, Hà Huyền Chi, nhưng chỉ có tôi và Hà Huyền Chi "làm văn nghệ" còn Đằng Giao và Duyên Anh thì chưa. Kỷ niệm mà tôi còn nhớ được về Duyên Anh vào thời đó là anh đã mê cô A. rất xinh đẹp, con gái một ông giáo nổi tiếng đang tạm trú trên tầng lầu ba.

Thấm thoắt thế mà gần một nửa thế kỷ. Hai chúng tôi giờ đây tóc đã điểm sương rồi. Nhớ­ lại hồi ở Sài gòn, có khi cả chục năm chúng tôi không gặp nhau, tôi trở thành viên chức nhà nướ­c, thỉnh thoảng cũng viết văn rồi cuối cùng đi vào lãnh vực điện ảnh còn Duyên Anh thì làm báo chuyên nghiệp và có tiểu thuyết được phóng tác thành truyện phim như Điệu Ru Nước Mắt và Trần thị Diễm Châu thời tôi làm Giám đốc Nha Điện ảnh, phát động phong trào làm phim Việt nam. Tôi hỏi Duyên Anh :

- Nghe bạn trả lời như thế thì tôi có thắc mắc khác. Hồi trước 1975, Duyên Anh nổi tiếng với những tác phẩm viết về du đãng nhiều hơn mà theo tôi biết thì bạn chưa thuộc băng đảng du đãng...

- Vậy để tôi nói cho bạn nghe. Thời đại mà tôi viết cuốn tiểu thuyết du đãng đầu tiên là cuốn Điệu Ru Nước Mắt là lúc các tướng lãnh mình đảo chánh nhau, ông tướng này bắt ông tướng kia, nay là tướng anh hùng mai là tướng gian, lung tung hết. Dưới mắt một nhà văn thì tình trạng đó nản quá, tôi thấy chẳng còn thứ gì đáng ca ngợi nữa. Với phản ứng đó, tôi mới đem du đãng ra ca ngợi, thế thôi.

- Và những nhân vật du đãng đó là những du đãng có thật ?

- Toàn là tưởng tượng.

- Tưởng tượng ? Tuần vừa rồi, tôi có đọc tờ Công An Thành Hồ của Việt cộng, có bài viết về du đãng ngày nay, tác giả của bài này nhắc lại du đãng của thành phố này trước năm 1975 và viết rằng bạn đã viết về nạn du đãng đó, đề cao du đãng khiến thanh niên thích làm du đãng. Bài báo này nhắc tới tên những nhân vật của bạn như Đại Ca Thay, Tứ Đại Thiên Vương ... Nhân vật Châu Kool của Duyên Anh là Lệ Hải, vợ Đại Ca Thay.

- Nó viết sai rồi. Nhân vật Trần Đại giống Đại Ca Thay thôi. Hồi đó, Đại Ca Thay có lần mời tôi đi nhảy, tôi nhận lời dù có biết nhảy chó gì đâu. Buổi đó nói nói với tôi rằng : "Anh viết chuyện về tôi không đúng tí nào cả". Tôi trả lời : "Tôi viết về anh bao giờ ? Nhân vật của tôi chỉ là sự tưởng tượng". Tôi nói thẳng là Đại Ca Thay làm sao mà bằng Trần Đại của tôi. Nhưng mà tụi du đãng đàn em của Đại Ca Thay như Huỳnh Tỳ thì chúng nó thích, chúng nó bốc thơm đại ca nó bằng cách rêu rao là đại ca nó là Trần Đại, đại ca nó là người đã được Duyên Anh viết thành tiểu thuyết.

- Bạn kể cho nghe những gì bạn biết về Đại Ca Thay và những điểm khác nhau giữa du đãng Đại Ca Thay và nhân vật Trần Đại ?

- Đại Ca Thay tên thật là Lê Văn Đại, cháu cựu thiếu tướng Lê Văn Hoạch. Sau một thời làm dân anh chị, nó mắc bệnh ghiền nặng lắm. Thời ông Nguyễn Ngọc Loan mới đưa nó ra Phú Quốc rồi nó chết ở ngoài đó. Bạn nên nhớ là cảnh sát mình ngày xưa cũng nuôi du đãng ở một cái trại của Biệt Đoàn Dã Chiến để xử dụng và khi không nuôi nữa thì bắt chúng nó ở tù thôi.

- Lần này sang Mỹ, bạn in một lúc bốn cuốn mới viết, trong đó ba cuốn về ca dao. Vậy bạn còn bao nhiêu cuối chưa in nữa ?

- Còn 16 cuốn chưa in.

- Bạn chỉ viết bằng tay trái mà được như thế thì mỗi ngày bạn phải viết mấy tiếng ?

- Tôi làm việc bình thường thôi, nhưng sở dĩ viết được nhiều vì què quặt rồi, không đi đâu được, cứ ngồi ở nhà nên chỉ viết hoặc là hêt thuốc lá thôi.

- Từ ngày bạn viết bằng tay trái thì đề tài nào là chính ?

- Chuyện người Mỹ dính dáng v­i Việt Nam nhưng là những người Mỹ không giống như những người Mỹ trong những sách những phim ảnh đã có. Người Mỹ sẽ yêu ca dao Việt, và từ ca dao Việt sẽ hiểu dân tộc Việt nam.

- Bạn định cư ở Paris, sao bạn không chú ý tới người Pháp mà lại "bắt" người Mỹ yêu ca dao Việt nam ?

- Bây giờ thì mình phải theo thời đại chứ. Người Pháp thì bây giờ họ muốn quên lãng người Việt Nam mình rồi. Người Pháp cũ thì còn được chứ người Pháp mới thì nó cũng chẳng biết Việt Nam là cái đếch gì.

- Bạn tính làm cách nào để người Mỹ hiểu ca dao Việt Nam chứ ?

- Thế mới là vấn đề. Tôi thấy Mỹ nó cũng có nhiều người tạm gọi là quái đản đi, nó thích cái này thích cái kia thì có thằng Mỹ thích ca dao Việt Nam.

- Như thế thì được mấy thằng.

- Thì mình làm thành số nhiều, ai cấm mình.

- Nghe bạn nói thì bạn coi ca dao là kinh rồi, có phải thế không ?

- Tất nhiên là mình phải viết về những tinh túy, những cái hay của ca dao chứ. Đây này ba cuốn sách mới lấy từ nhà in về, tôi viết về ca dao đây. Mới lạ lắm. Một khám phá mà. Một trong những truyện mới viết của tôi là người thằng lính Mỹ, thằng trẻ con Việt Nam và con dế, thế là thành một truyện dài rồi. Tôi đã định viết từ hai mươi năm trước rồi. Tôi tả một trận càn quét của lính Mỹ vào một làng có nhiều Việt cộng. Mỹ nã pháo vào làng đó thì có một thằng bé nó chạy ra. Khi gặp mặt thằng lính Mỹ trẻ thuộc loại lính đi quân dịch, thằng bé cứ khóc. Thằng lính Mỹ không hiểu tại sao nó khóc. Hai đứa ngôn ngữ khác nhau nên không nói gì cả. Thằng Mỹ dỗ nó, cho nó kẹo bánh, nó không lấy. Cho cả đồng hồ mà nó cũng không lấy. Rồi thằng bé mới chỉ vào cái hộp quẹt, thằng Mỹ chẳng hiểu thằng bé muốn gì. Cuối cùng thì thằng lính Mỹ theo đơn vị rút đi, thằng bé con nhìn theo. Đến khi được giải ngũ, trở về Mỹ, thằng lính vẫn cứ bị ám ảnh hình bóng thằng bé con này với cái hộp quẹt. Đó là động lực thúc đẩy thằng Mỹ đi học tiếng Việt. Lúc học tiếng Việt, thầy giáo giảng cho nó nghe các câu ca dao Việt Nam. Với các câu đơn giản mà vô cùng í nghĩa đó đã làm thằng Mỹ này say mê và để tâm nghiên cứu ca dao Việt Nam. Nó yêu ca dao nên nó yêu dân tộc và đất nước Việt Nam thôi. Nó bèn trở lại Việt Nam. Nó tìm tới nơi trận chiến năm xưa để mong gặp thằng bé. Thằng bé hồi ấy nay đã lớn. Hai người đã truyện trò được với nhau. Thằng bé đưa thằng Mỹ đi chơi, xem các buổi đá dế. Một hôm thằng Mỹ thấy những đứa trẻ Việt Nam cầm những cái hộp quẹt, mở ra thì bên trong chứa dế. Bây giờ nó mới hiểu năm trước khi thằng bé Việt Nam này khóc và chỉ vào chiếc hôp quẹt là bởi vì con dế của nó trong đó đã mất. Thằng bé thương con dế như người bạn. Đại khái thì cứ thế mà kéo dài ra... thành tiểu thuyết thôi.

Tôi để ý Duyên Anh tuy đã bình phục trí nhớ nhưng khi nói, anh vẫn còn đôi lúc phát âm còn hơi ngọng, hơi khó khăn như phải tìm kiếm chữ nghĩa. Nhưng anh vừa kể chuyện thằng bé với con dế vừa cười, nụ cười thật tươi, tiếng cười thật giòn. Nếu tôi tưởng tượng thì tôi sẽ nghĩ rằng người bạn tôi đang hồi tưởng về thời thơ ấu của anh ở làng Tường An, tổng Ô Mễ, tỉnh Thái Bình. Nhiều lần Duyên Anh nói về quê quán của anh rằng nơi anh sinh trưởng là một làng nghèo nhất tỉnh, cơm không đủ ăn nên cho tới năm 1954 khi anh di cư vào Nam, cả làng chưa ai có mảnh bằng trung học phổ thông, kể cả anh.

Duyên Anh tên thật là Vũ mộng Long, là con cả của một gia đình 7 anh em. Mãi gần đây tôi mới hay anh lấy vợ rất sớm. Khi bỏ vô Nam, Duyên Anh đã để lại ở miền Bắc người vợ và một ngườI con gái. Cô này mới gởi ra hải ngoại cho bố tấm hình chụp năm cô tròn 42 tuổi.

Trong cuốn tiểu thuyết Áo Tiểu Thư, Duyên Anh viết về giai đoạn anh mới đặt chân lên Sài gòn, sống ở nhà hát lớn. Anh ghi lại trong tác phẩm này rằng lúc đó nhìn thấy tôi hàng ngày đi làm ở tòa soạn báo Ban Mai, cầm tờ báo về nhà hát lớn, là một hình ảnh mà anh mơ ước. Quả nhiên, Duyên Anh đã đi vào nghề báo. Đầu tiên anh viết truyện ngắn, ký tên Duyên Anh. Tôi hỏi tại sao lại lấy biêt hiệu là Duyên Anh thì anh kể cho nghe, Duyên Anh là tên một bản nhạc của người bạn cùng lớp ba với anh, tên là Nguyễn Thịnh. Khi Nguyễn Thịnh sáng tác xong bản nhạc này đã nhờ anh mang tới đài phát thanh Hà nội, tìm ca sĩ Quách Đàm đưa tặng và nhờ ông hát. Ít lâu sau thì anh nghe tiếng Quách Đàm hát bản Duyên Anh trên làn sóng điện. Duyên Anh rất thích bản nhạc này. Nên khi viết xong truyện ngắn đầu tay, anh đã lấy biệt hiệu là Duyên Anh cũng là để nhớ ngườI bạn ở lại miền Bắc. Năm 1975, khi Việt cộng chiếm được Sài gòn, Duyên Anh được tin người bạn này trở thành giám đốc nhà xuất bản nhạc của chế độ Hà nội. Nguyễn Thịnh được đảng chỉ định tiếp thu nhà in Trương Vĩnh Lễ. Nguyễn Thịnh cũng tìm vào khám Phan Đăng Lưu ở Gia Định để thăm và tiếp tế cho Duyên Anh đang bị giam cầm trong đó.

Tôi quay qua hỏi Duyên Anh :

- Thời trước, tôi thích bạn với tờ Tuổi Ngọc, viết cho tuổi thơ. Tôi thích cái tiếng mà một số người gọi bạn là nhà văn của tuổi thơ.

Duyên Anh cười :

- Gọi thế có quá đáng chăng ?

- Cộng sản rất chú ý tuổi thơ nên chúng nó dựng lên nhiều huyền thoại cho tuổi thơ bắt chư­ớc, chẳng hạn như Kim Đồng. Bộ đội cộng sản vào Sài gòn năm 1975 là thế hệ Kim Đồng cả đấy. Vậy không hiểu khi bạn làm tờ Tuổi Ngọc cho tuổi thơ, bạn thấy độc giả của bạn học được những gì ?

- Tôi viết về tuổi thơ thực sự không mang một hoài bão nào mà chỉ vì tôi, tôi không có tuổi thơ. Tôi thèm tuổi thơ nên viết về tuổi thơ để giải tỏa những ẩn ức, những thèm khát... Nhưng khách quan mà nói thì những bài viết mang nội dung giáo dục đó cũng có một số ảnh hưởng tốt. Những độc giả tuổi thơ thời đó nay ở lớp tuổi bốn mươi cũng vẫn còn nhắc nhở tới Duyên Anh với những bài như Mơ Thành Người Quang Trung... Tôi cũng được an ủi.

- Bây giờ xin hỏi bạn, tại sao người Pháp lại chọn tiểu thuyết viết về tuổi thơ mới đây của bạn để làm phim và dịch sang tiếng Pháp ?

- Dịch ra tiếng Pháp là cuốn Những Đứa Trẻ Thái Bình, còn làm phim là cuốn Đồi Fanta. Nó dịch cuốn Những Đứa Trẻ Thái Bình vì nó là cuốn tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong bối cảnh từ năm 1944. Những nhân vật chính vào thời đó là những đứa trẻ rồi từ đó lớn lên theo những cuộc biến động của đất nước, thành những người thanh niên. Và những thanh niên này thằng thì bị thương tàn phế, thằng thì nổi trôi tàn mạt. Kết quả chúng nó thấy tuổi thơ của chúng nó đã mất vì chiến tranh giống như đất nước bị tàn phá về chiến tranh.

- Thế thì có thể hiểu Những Đứa Trẻ Thái Bình là hồi ký hay tự truyện của chính tác giả không ?

- Không, tuy viết về quê của tôi là Thái Bình, về những đứa trẻ như tuổi của tôi nhưng không phải hồi ký, tự truyện. Không có gì của riêng tôi trong đó. Nó là vấn đề của thế hệ của tất cả chúng ta. Tôi nhắc lại là tôi không có tuổi thơ.

*

Chúng tôi rời bàn ăn sang phòng khách, ngồi ngả người trên những chiếc ghế nệm dày. Tôi đảo mắt nhìn quanh phòng, đồ đạc đơn sơ, một chiếc ti vi cũ để trên kệ tủ, một chiếc thu phát băng video phía dưới, tất cả đều im lìm nhưng rõ ràng chứa đựng biết bao nhiêu bí mật. Chỉ cần nhấn ngón tay vào cái nút, luồng điện sẽ làm màn ảnh sáng lên và chiếc máy sẽ bắt được những làn sóng đang tràn ngập căn phòng này, đang vây quanh tôi mà tôi không thấy không biết, rồi mang lên màn ảnh những hỉ nộ ái ố... Ý nghĩ của tôi đưa tầm mắt tôi chú ý vào cánh tay phải của Duyên Anh đang nằm xuôi bên sườn, những ngón tay như nải chuối cau cằn cỗi đặt trên đồi. Bất giác tôi hỏi người bạn tôi một câu rất thừa :

- Thành ra bây giờ bạn chỉ viết bằng tay trái ?

Duyên Anh cười :

- Tại vì tay phải bị người ta cướp đi rồi.

- Bạn thật là người can đảm

. - Nhiều người cũng nói như vậy. Nhưng với tôi thì là can đảm bất đắc dĩ thôi. Tôi như một người bị đẩy xuống cho chết chìm trong bóng tối thì phản ứng đương nhiên là mình phải ngoi lên.

- Ai muốn đẩy bạn vào bóng tối ? Bạn có thể thuật lại ngày mà bạn bị "người ta" đánh bạn không ?

Duyên Anh ngập ngừng :

- Thì đó là ngày 30 tháng 4. Trần Đình Thục nó chở tôi đi ra ngoài Bolsa xem đồng bào biểu tình... Thôi, tôi quên bố nó hết rồi. Tôi chỉ nhớ đại khái lúc ấy vừa mới ở tiệm ăn trong khu Tú Quỳnh bước ra, đang đi lông nhông. Khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong nhà thương.

- Bạn không trông thấy thằng đánh bạn ?

- Không. Tôi chỉ nghe người ta nói lại là trước khi đánh tôi, nó gọi tên tôi, tôi mới xoay mình về phía nó là nó đập vào đầu tôi rồi.

- Bạn nghĩ kẻ đánh bạn thuộc thành phần nào ?

- Trước đây, tôi nghĩ nhiều lắm nhưng nay thì với tôi, mọi chuyện đã qua cả rồi, không còn nghi ai nữa hết. Tôi nghĩ rằng người đánh tôi phải là một tay võ sĩ hạng giỏi, chơi nhẹ một phát vào trán, đánh thẳng vào huyệt. Nhưng tôi phải cảm ơn Chúa, cảm ơn Trời, cảm ơn Phật đã khiến tôi quay đầu nơi cú đấm hơi chệch đi một chút. Nếu họ đánh đúng huyệt, nghĩa là tôi không có phản ứng tự nhiên lúc đó thì tôi đã vĩnh viễn sống mà như chết từ ngày đó rồi.

- Thằng đó chỉ đánh bạn có một cái thôi ?

- Ừ, nó đấm có một cái. Bạn thử tưởng tượng nếu tôi trúng "trực tiếp" cú đòn đó, tôi sẽ cứ nằm một chỗ, muốn ăn thì phải có người đút vào miệng, muốn đi tiêu đi tiểu cũng phải kêu gọi, có người bưng bô tới...

- Bạn còn thù kẻ đã làm hại đời bạn ?

- Có lẽ tôi cần phải nói là tôi biết ơn người đã đánh tôi đấy. Tôi nói thế, bạn hiểu không ? Vì nhờ cái vụ bị đánh này mà tôi được chính phủ Pháp trợ cấp tàn phế, ăn cho đến lúc chết. Tôi được hưởng nhiều thứ lắm. Tôi không phải lo về áo cơm như một số đồng nghiệp tuy đã lưu vong mà vẫn không có tự do để viết vì thì giờ còn bận chuyện áo cơm. Nhờ vụ đánh này mà tôi được ngồi viết, như thế không khoái sao ? Thành ra, nếu có dịp nào đó, tình cờ được gặp người đã đánh tôi, tôi sẽ mời người đó sang Paris chơi như một người bạn. Tôi mời tới ở trong nhà tôi, mình có gì cùng ăn để tôi bày tỏ lòng cám ơn.

- Nhưng có dư luận cho rằng kẻ đánh bạn thuộc thành phần cộng sản ?

- Biết rõ hơn kẻ đó để làm gì ? Biết hay không biết thì chân mình đã què, tay mình đã liệt rồi. Giờ có giết được họ, bắt họ vô tù đi nữa thì bệnh tật của mình có nhờ đó mà khỏi chó đâu. Thành ra, tốt nhất là quên hết chuyện cũ. Tôi mong anh bạn nào chơi tôi một quả rất đẹp đó cũng nghĩ thế để mình thân thiện với nhau đi.

Nói xong, Duyên Anh cười sảng khoái, rít một hơi thuốc thật dài rồi chu miệng thổi khói lên không trung. Từng sái khói lãng đãng bay. Những sái khói gợi nhớ trong tôi những hình ảnh hợp tan tan hợp, hình ảnh của có không, không có, còn mất, mất còn. Tôi chợt nh­ giọng hát karaoke của một người bạn gái trong cuốn cassette có câu "Em là mây bốn phương trời"... Tại sao em lại là mây bốn phương trời ?

Tôi vội trở lại với Duyên Anh. Người bạn gái của anh đã mang tới trước chúng tôi hai ly cà phê sữa nóng. Tôi kể cho Duyên Anh nghe khi Thời Luận đăng cuốn truyện dài "Hồn Say Phấn Lạ" của anh, nhiều độc giả cho rằng đó là một tác phẩm chống cộng có giá trị. Nhưng sau đó Duyên Anh ra khỏi đề tài này. Giờ đây anh mê say ca dao. Tôi hỏi :

- Lúc này đây bạn nghĩ thế nào về cộng sản ?

- Nhiều người đọc sách của tôi, cho là tôi căm thù cộng sản ghê lắm. Không, tôi không căm thù. Ngòi bút tôi chỉ theo lẽ phải, chỉ theo sự thật. Người cộng sản không yêu sự thật và lẽ phải nên tôi chống họ, buộc họ phải tôn trọng sự thật và tôn trọng lẽ phải. Ngoài cộng sản, những người nào không yêu sự thật và lẽ phải, tôi cũng chống. Những kẻ bị tôi chống kêu ầm lên rằng tôi hay đánh phá. Họ tạo nên một dư luận xấu về tôi để mọi người ghét tôi. Có điều này nữa, cộng sản chúng nó căm thù tôi vì tôi chỉ là con một nhà nông nghèo. Thành phần này trên nguyên tắc thì là giai cấp vô sản rồi, phải là người của đảng rồi. Nhưng từ khi cầm bút, tôi thấy cộng sản không thực sự làm những gì họ nói. Giai cấp vô sản à ? Chỉ là đồ bỏ trước nhu cầu của đảng. Họ không yêu sự thật và lẽ phải thì mình với họ phải chống nhau thôi.

- Như vậy thì tại sao chúng nó chỉ giam giữ bạn trong nhà tù có 6 năm ?

- Đúng. Tôi ở tù 6 năm. Nói thật với bạn là lúc đầu tôi không tin các ông ấy chơi tôi kỹ thế. Tôi thành thực tin là các ông ấy chỉ giỡn chơi tôi chừng một năm rồi thả tôi về, mặc cho tôi viết lách những đề tài cho tuổi thơ và quê hương... Không ngờ các ông ấy om tôi tới sáu năm. Khi được thả, một số các ông lớn của phía các ông ấy tới gặp, nói rằng tôi ở tù 6 năm thì hơi lâu, đó cũng là một sơ suất của cán bộ cấp dưới, đảng không chủ trương giam kỹ thế. Các ông ấy chiêu hồi mà. Tôi còn lạ gì hồi Nhân Văn Giai Phẩm nhiều anh đi tù hàng chục niên mút mùa chứ sáu năm đã thấm gì. Các ông bảo tôi, thôi bây giờ về thì viết lại đi. Nhưng tôi bảo tôi đâu có biết viết cái gì vì "học tập" chưa thông. Các ông ấy bảo, không, tôi không cần anh viết ca ngợi đảng và bác. Anh cứ viết về tuổi thơ như anh từng viết. Tôi ậm ờ cho có chuyện. Thế rồi đến ngày vợ con tôi được đi chính thức sang Pháp, các ông ấy không cho tôi đi. Đấy, cộng sản lúc nào thì vẫn là cộng sản. Cộng sản lúc nào cũng sợ sự thật và lẽ phải. Tôi phải trốn ra biển để đi đoàn tụ với vợ con tôi. Thành ra nếu ngòi bút tôi hung hãn với cộng sản thì cũng dễ hiểu thôi.

Lời cuối Duyên Anh nói khiến tôi chợt nhớ lại hồi 1975 ở Sài gòn. Đó là tối 22 tháng 4, 1975 khi tôi ở phim trường Mỹ Vân đường Ngô Thời Nhiệm bước ra sau một buổi chiều ngồi ráp nối đoạn chót cho cuốn phim Giỡn Mặt Tử Thần, thì gặp Duyên Anh tình cờ phóng xe hơi chạy ngang. Duyên Anh nhìn thấy tôi nên anh thắng xe thật gấp rồi cho xe chạy lùi tới chỗ tôi. Anh thò đầu ra ngoài khung cửa xe, giọng hốt hoảng : "Này thằng Thiệu nó từ chức rồi, Sài gòn sắp mất mẹ nó rồi, doọc lẹ đi". Tôi hỏi : "Mày có đường nào binh chưa ?". Duyên Anh trả lời : "Rồi. Tụi Mỹ nó sẽ đón tao". Thế nhưng vài ngày sau, khi Sài gòn đã rơi vào tay cộng sản, tôi tình cờ gặp Duyên Anh. Chúng tôi đưa nhau vào tiệm bánh cuốn thanh trì khu Đa Kao. Duyên Anh kể cho tôi nghe khi xe của một cơ quan Hoa Kỳ tới đón thì hai vợ chồng anh đang gây gổ nhau. Việt cộng vô, anh đưa gia đình về Long Xuyên rồi xuống Rạch Giá, cùng một số người chung mua một ghe đánh cá, thuê tài công chở sang Thái Lan. Nhưng khi ghe ra giữa biển, tài công nhảy xuống lúc nào không ai hay, rốt cuộc đành quay về. Tôi cũng kể cho Duyên Anh nghe trường hợp của tôi. Một ông chú của vợ tôi làm trong tòa đại sứ Úc, đã lo mọi giấy tờ để chúng tôi sang Úc tị nạn. Tôi còn kéo theo gia đình ông bà Lưu Trạch Hưng, chủ nhân hãng phim Mỹ Vân đi chung với dự tính sang Úc làm phim tiếp. Ngày 28 tháng 4, 1995 khi phi trường Tân Sơn Nhất bị oanh tạc, người chú này đưa chúng tôi tới tạm trú tại tư thất của ông đại sứ Úc trên đường Phan Đình Phùng, xế đại học Luật Khoa, để chờ giờ xe chở ra phi trường. Nhưng chờ cho đến lúc Dương Văn Minh đầu hàng thì chúng tôi lên xe phóng ra Vũng Tàu, tin rằng nếu thuê được ghe, phóng ra ngoài khơi thì vẫn hy vọng còn gặp hạm đội 7. Chúng tôi vượt biên lần đầu tiên vào sáng 3 tháng 5, 1975 có bộ đội Việt cộng đứng trên bờ vẫy tay chào vì khi rời bến, chúng tôi khai là hồi hương về Phan Thiết. Vợ chồng tôi cũng bị tài công lừa sau một đêm cho ghe chạy vòng vòng quanh Côn Đảo.

Ăn bánh cuốn xong, Duyên Anh và tôi tới trụ sở hội Văn nghệ Giải phóng ở đường Trương Minh Giảng để "đăng ký" theo thông cáo của chính quyền mới đọc trên đài phát thanh. Khi đến lượt, Duyên Anh cầm bút ghi, bắt đầu là cột "số thứ tự", sang cột "họ và tên" anh viết ba chữ Vũ Mộng Long, rồi cột "biệt hiệu" anh đề hai chữ Duyên Anh, tới cột "nghề nghiệp", Duyên Anh đề "nhà văn". Lúc đó, một người trong giới văn nghệ sĩ Sài gòn ngồi ở đấy bèn nói : "Mày phải đề mày là "nhà văn chống cộng" mới đúng chứ". Lập tức tôi thấy mặt Duyên Anh đanh lại, nhìn tròng trọc vào người vừa nói, miệng anh gằn từng tiếng : "Đ.M. tác phẩm của Duyên Anh còn đó, hiểu chưa". Rồi Duyên Anh bỏ đi.

Người bạn gái của Duyên Anh nhắc tôi uống cà phê kẻo nguội. Tôi gật đầu cảm ơn xong nhìn Duyên Anh, hỏi :

- 6 năm trong tù, bạn được chiếu cố đi những trại nào ?

- Tôi ở tù ba năm và đi "học tập cải tạo" ba năm. Phải nói rõ như thế vì ở tù khác học tập cải tạo. Ở tù là vì họ đến tận nhà mình, đọc bản án rồi còng tay bắt mình đi. Họ đưa tớ­i Sở Công an Nội chính, ở đó ba bốn tháng lấy cung rồi đưa về nhà tù Phan Đăng Lưu Gia Định giam một năm, rồi đưa về nhà tù Chí Hòa giam thêm một năm, tổng cộng là ba năm. Sau đó mới được đưa đi "trại học tập" Xuyên Mộc, rồi "trại học tập Hàm Tân", tất cả là thêm ba năm nữa.

- Bạn có nghe người ta đồn bạn làm ăng ten trong tù không ?

- À có chứ. Nói về ba năm ở tù thì khổ ghê lắm, khổ tận cùng, không thể khổ hơn nữa. Thế mà người ta không đồn tôi làm ăng ten trong giai đoạn ở tù. Người ta bảo tôi làm ăng ten thời ở trại học tập Xuyên Mộc. Ở tù Phan Đăng Lưu, Chí Hòa khổ như chó không làm ăng ten mà sang trại Xuyên Mộc sướng lắm rồi thì lại đi làm ăng ten là nghĩa lý gì ? Tôi nghe người ta nói tôi làm ăng ten từ lúc tôi chuyển trại từ Xuyên Mộc sang Hàm Tân. Xuyên Mộc cách Hàm Tân có một dãy núi Mây Tào thế mà ngày đầu tiên tới Hàm Tân, tôi đã nghe những anh em tù ở đây xì xầm tôi làm ăng ten, điều đó mới lạ, và điều đó đã cho tôi câu trả lời từ đâu phát xuất ra sự đồn thổi tôi làm ăng ten.

- Bạn nói rõ hơn đi.

- Có gì đâu, cộng sản tuy căm thù tôi nhưng chúng nó cũng biết sẽ có ngày phải thả tôi vì nhiều áp lực quốc tế như Ân Xá Quốc Tế, như Văn Bút Quốc tế. Theo tin tôi biết thì đáng lẽ tôi được thả sau 5 năm, nhưng chúng nó xỏ lá, nhốt thêm một năm nữa để có thì giờ bôi bẩn và làm cô lập hóa tôi nơi quần chúng. Trước khi thả tôi ra, họ phải thấy tôi là kẻ tật nguyền rồi, trúng thương rồi, hết múa may rồi. Tôi đã bị họ bắn mũi tên độc đó.

- Bạn cho là chính Việt cộng chủ trương vụ phao tin bạn làm ăng ten ?

- Thì chính chúng nó chứ còn ai nữa. Chúng nó thổi cái tin đó ra hải ngoại để tôi có muốn viết chống cộng cũng không ai tin nữa.

- Phản ứng của bạn về vụ bạn làm ăng ten thế nào ?

- Tôi buồn cười. Bạn nhớ là tụi cộng sản nó khinh chúng mình lắm. Bằng cớ là nó chỉ sai những thằng mười tám hai chục, hạ sĩ trung sĩ làm quản giáo, làm độI trưởng, làm giảng viên cho tù cải tạo dù tù đó là ông tướng, ông bộ trưởng hay văn nghệ sĩ. Thế mà chúng nó bảo là mình đi học tập cải tạo để thành con người mới xã hội chủ nghĩa. Nếu nó thực tâm hay nếu nó trọng mình một tí thôi thì chúng nó phải đưa xuống nói chuyện với mình những thằng tương đương chứ. Ở trại Xuyên Mộc của tôi cũng thế, chỉ có các ông bộ đội canh gác và dạy dỗ mình là những ông thanh niên mười tám hai chục tuổi. Chúng nó biết cái chó gì. Mà mình thế này không lẽ có thể muối mặt đi nịnh bợ mấy ông nhóc đó ? Mình thế này mà có thể đi làm ăng ten thì thụt cho mấy ông nhóc tì đó ? Về tuổi tác thì chúng nó chỉ bằng con cháu mình. Về quyền hành thì chúng nó bắt mình thì không có quyền, mà thả mình thì lại càng không có quyền thả. Chỉ có quyền hành hạ ấm ­ mấy thằng tù tội ca cóng chứ làm đếch gì hơn thế. Mà làm ăng ten thì hỏi tất cả anh em cựu tù ở đây xem, những người bị ăng ten báo cáo bị chúng nó phạt thế nào ? Cao nhất là cúp thăm nuôi một kỳ, một kỳ thôi, hay nặng nữa, với những bằng cớ cụ thể thì nằm trong biệc giam vài ngày một tuần. Ăng ten có giết được ai đâu ? Tội lỗi thì mọi người đã tự khai, đã viết hết cả rồi. Mà cũng chưa có vụ ăng ten nào trong 6 năm tù mà tôi nghe liên quan đến hồ sơ lý lịch, tội lỗi trước năm 1975, toàn là chuyện ca cóng vớ vẩn thôi. Ăng ten đâu có giết nổi ai.

Tôi nói cho Duyên Anh nghe về một cách giải thích khác của một người bạn tôi sau năm 1975 có làm việc với cộng sản ở Sài gòn, tới đầu năm 1982 mớ­i vượt biên. Theo lời người bạn này thì chính anh ta nghe một cán bộ Việt cộng nói trong buổi học tập ở cơ quan về sự "bách chiến bách thắng của đảng ta" vì đảng ta có những lãnh đạo là "đỉnh cao trí tuệ loài người" như các "đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng vân vân". Người cán bộ này dẻo miệng kể huyên thuyên mọi thí dụ để chứng minh là ngay cả bọn sừng sỏ phản động nhất của Mỹ ngụy cũng phải đầu hàng đảng ta nếu không muốn bị đảng ta nghiến nát. Trong những thí dụ này, tên cán bộ nói nhiều lần đến tên nhà văn Duyên Anh, như "tên Duyên Anh nay đã biết thành tâm hối cải", "tên Duyên Anh nay đã thú tội và được đảng khoan hồng vì dù sao anh ta cũng có tài", "Duyên Anh đang lập công chuộc tội đã đánh phá đảng và nhà nước"...

Tôi hỏi Duyên Anh :

- Nhưng bạn giải thích thế nào khi mà chính tù cải tạo, chính độc giả của bạn cũng đồn là bạn làm ăng ten trong tù ?

- Có thể là vì mình đã có tí danh còm, lại chuyên viết chuyện du đãng, nhân vật ghê gớm lắm, mà khi mình vào tù, mình không có hành động nào anh hùng như nhân vật của mình chăng ? Mình cúi mặt trước cán bộ nên bị khinh chê là hèn chăng ? Hay cũng có thể vì khi trước mình viết báo chửi bới quá nên nhiều người không ưa mình chăng ?

- Thế thái độ trong tù của bạn là cúi mặt chịu đựng chứ không chống đối ?

- Chống đối ai trong tù ? Chống mấy anh mười tám hai mươi tuổi canh giữ mình thì chống làm cái chó gì ? Bạn dù có muốn làm gì hơn thì cũng vô ích vì chúng nó độc tài, tin về chống đối của bạn có ra khỏi hàng rào nhà tù đâu mà mong có tiếng vang, có áp lực ?

- Nghe bạn nói thế, tôi lại nhớ tới vụ chống đối của anh Nguyễn Mạnh Côn ở trong tù. Mà cũng có người đồn rằng bạn trách nhiệm về cái chết của anh Côn. Bạn có thể kể cho nghe không ?

- Trước hết là tôi ở một đội và ông Nguyễn Mạnh Côn ở đội khác do Đằng Giao làm đội trưởng. Hai đội ở hai chỗ xa nhau thì làm sao mà tôi làm cho ông Côn chết được ?

- Ông Côn chết trong trường hợp nào ?

- Ông Côn thì bạn còn lạ gì. Tôi rất thương ông ấy chứ. Ông ấy chết một cách lãng nhách. Thế này này. Trong thời ở Công an Nội chính hay đề lao Gia Định, tôi cũng không ở chung phòng với ông Côn. Chỉ có lúc ở Chí Hòa thì hai người bị nhốt chung thôi. Thời đó ông Côn đã suy nhược nhiều vì ông ấy thiếu thuốc. Tôi còn nhớ một chuyện về giai đoạn đó. Lúc trại nó cho tin là có Hội Nghiên cứu Mác xít tới thăm nhà lao thì ông Côn bèn làm đơn cho trại xin gặp những người này. Trại nó thuận cho ông Côn ra gặp. Nhưng ông Côn nói những gì thì tôi không lại vào tù thôi. Có những lúc ông ngồi nói chuyện với Đoàn Kế Tường, Đằng Giao, Hoàng Mạnh Hùng, hắn ta đang ở Costa Mesa đấy. Ông Côn nói như thế này : "Các cậu nay mai phải có độc giả mới". Đoàn Kế Tường mới hỏi : "Độc giả gì nữa, anh. Tù là hết rồi". Ông Côn đáp : "Có chứ. Khi tù ra, mình viết đúng đường hướng là được". Đoàn Kế Tường nó nói : "Anh làm thế thì vợ anh khinh bỉ anh". Ông Côn đáp : "Cần gì, lấy vợ khác". Đại khái là ông Côn đã nói không giống ai khiến Đoàn Kế Tường nó tức, nó đá ông Côn ngay tại chỗ. Anh em phải xúm vào ôm giữ nó. Nó to con, dân Quảng Trị, khỏe như trâu, lại rất phản động, từng nằm cát xô rồi.

- Bạn có nghĩ rằng ông Côn đóng kịch để qua mắt tụi nó vì người như ông Côn thì tụi nó choảng cho hai cái án, án phản khảng chiến và án phản cách mạng...

- Ai biết tim gan ông ấy. Chỉ thấy những sự kiện như ông ấy khai bệnh, xin ở nhà. Một hôm ông rủ tôi : "Tớ với cậu viết chung một quyển sách đi". Tôi hỏi : "Thưa anh viết sách gì ?". Ông Côn nói : "Cậu viết làm sao cho trại vui vẻ lên đi". Tôi trả lời ngay : "Thưa anh, em còn đang học tập nên chưa thông, chưa viết được".

*

Tôi kể thêm cho Duyên Anh nghe một số điều dư luận đồn đại về anh liên quan đến cái chết của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Theo những tin này thì ông Nguyễn Mạnh Côn vào ngày hết hạn ba năm "học tập", bèn đòi ban quản trị trại thả ông về. Việt cộng không thỏa mãn yêu sách của ông, ông tuyên bố tuyệt thực và Việt cộng đem nhốt giam ông. Một số anh em tù thấy ông Côn ốm yếu nên tìm cách lén tiếp tế thức ăn cho ông nhưng Duyên Anh đã làm ăng ten, báo cho trại biết khiến cho việc tiếp tế này không thành, kết quả là ông Nguyễn Mạnh Côn chết.

Chúng tôi thảo luận về ông Nguyễn Mạnh Côn, người mà tôi kính trọng từ khi được đọc cuốn Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử, người mà tôi cảm mến khi được quen biết, đã thấy ở ông một thái độ điềm đạm, giản dị, đôi môi luôn luôn có nụ cười. Ông Côn khi đề nghị Duyên Anh viết sách, ông Côn khi đến ngày đúng ba năm ở tù đã ngang nhiên ra trước trại đòi phóng thích và rồi tuyệt thực, những hành động này của ông Côn hẳn phải có một ý nghĩa. Bởi vì ông từng tham gia kháng chiến, từng là dân biểu quốc hội thời Việt cộng, không thể nói ông không hiểu Việt cộng.

Tôi cũng kể lại cho Duyên Anh nghe thêm, trong một buổi trò truyện với nhà văn Hà Thúc Sinh, anh đã nhắc lại cho tôi nghe buổi anh tới thăm ông Côn sau ngày 30 tháng 4, 1975. Hà Thúc Sinh nói : "Ông ấy ít nói, mãi mới bảo mình : "Rồi có lẽ tôi sẽ sướng hơn các cậu". Theo Hà Thúc Sinh thì anh hiểu câu nói ấy là một quyết định của ông Côn, nghĩa là chỉ có cái chết tự chọn, thì ông Côn mới có thể sướng hơn những người sẽ sống vất vưởng trong trại tù cộng sản. Nghe tôi kể, Duyên Anh nằm ngữa mặt nhìn trần nhà, hút thuốc. Nét mặt anh đanh lại, vẻ cay đắng hiện lên sau cặp kính trắng. Mãi lúc sau, Duyên Anh mới nói :

- Hiện ở Nam Cali này có một số cùng tù chung với tôi thời đó, họ biết sự thật. Tôi mong họ nói ra đi. Còn tôi, nếu cứ phải đi cải chính thì biết bao giờ mới cải chính xong trước cả một âm mưu triệt hạ tôi ? Tôi có thể khẳng định thêm điều này, sự thực của nhiều nhân vật trong tù nó còn thối hơn nhiều, tôi đã không thèm viết ra... Tôi không thèm viết ra...

Tôi nói với Duyên Anh :

- Nếu bạn thấy những chuyện mà bạn bảo là thối đó, mà bạn không thèm viết thì cũng là một điều đặc biệt. Bởi vì cho đến bây giờ, người ta vẫn cho rằng bạn là một tay chuyên đánh phá tàn bạo...

- Tôi nói thật với bạn, mà tôi chẳng sợ gì mà không nói thật, rằng tôi không cộng sản mà cũng chẳng quốc gia nếu hiểu chữ quốc gia như một số người ở đây đang tự nhận, đang hành động ở đây.

- Có phải đó là động lực khiến bạn viết báo chửi không ?

- Chắc phải nói hơi dài. Trước hết, bạn chưa biết gốc gác tôi nhiều đâu, tôi là con một gia đình bần nông ở Thái Bình. Từ nhỏ, tôi đã sống nghèo khổ, chứng kiến cảnh bố mẹ chạy ăn từng bữa mà còn bị bọn cường hào ác bá hành hạ, ức hiếp. Tới khi khôn lớn lên, sống bằng nghề báo thì mỗi khi cầm bút, viết về câu chuyện bất công của thời đại, tự nhiên tôi lại nhớ tới dĩ vãng thù hận. Thành ra giọng văn trở thành phẫn nộ, ác độc.

- Bạn cũng biết điều đó ?

- Biết chứ. Lúc đầu thì chửi sơ sơ thôi, rồi độc giả khoái, gửi thư về bơm mình lên làm mình sướng, chửi nữa.

- Giờ nghĩ lại, bạn có bao giờ hối hận vì những điều mình đã viết không ?

- Tôi công nhận là đôi khi tôi đả kích quá đáng nhưng tôi không đánh sai mục tiêu nào nên không có gì hối hận.

- Thế bây giờ bạn còn ý định làm sống lại ông Thương Sinh trong người bạn nữa không ?

- Không. Tôi muốn từ nay tôi không phải đả kích ai nữa.

- Lí do ?

- Giờ đã già rồi. Vả lại mình nhận thấy rằng dù có vung dao phạt cỏ thì cỏ vẫn cứ mọc mà. Bạn thấy đó, tiểu Sài gòn ngày nay thì có khác gì đại Sài gòn ngày xưa ? Có chửi cũng thế thôi. Xã hội nó thê thảm quá rồi. Nhưng tôi rất muốn làm sống lại biệt hiệu Thương Sinh chứ.

- Khi bạn lấy biệt hiệu Thương Sinh là bạn nghĩ gì ?

- Lúc đầu tôi lấy chữ Thương Sinh với ý nghĩ là thương kiếp nhân sinh. Nhưng sau này khi tôi tra tự điển thì thấy chữ Thương sinh lại là một gã đau ốm. Thành ra cũng định mệnh thôi. Thuở nhỏ tôi cũng là đứa trẻ đau ốm. Nay về già lại là một ông già bán thân bất toại.

- Bạn nói bạn không đánh phá ai thì còn muốn làm sống lại biệt hiệu Thương Sinh làm gì nữa ?

- Tại vì tôi rất yêu văn chương hài hước của người mình. Mà văn chương hài hước thì đã chết trên quê hương ta từ 50 năm nay, tức từ ngày có đảng rồi.

- Nhưng thực sự thì vẫn còn một số người viết văn hài hước đấy chứ. Theo bạn thì người viết nào mà bạn nể nhất ?

- Tôi chỉ thấy ông Chu Tử.

- Và Thương Sinh ?

- Thương Sinh sẽ viết văn hài hước.

- Làm sao để phân biệt khi nào hài hước khi nào đánh phá ?

- Rất dễ hiểu lắm. Tinh thần hài hước là phải dùng ngôn ngữ của thời đại, mà ngôn ngữ của thời đại thì rộng lắm. Đại khái là năm 1996 tới nơi rồi mà ta còn dùng nhân vật Ba Giai Tú Xuất hay Lí Toét Xã Xệ thì ai cười nổi.

- Vậy theo bạn thì tờ Con Ong trước đây là báo hài hước hay đánh phá ?

- Đó là tờ đánh phá thôi.

- Paris, nơi bạn ở có tờ "Con Vịt Buộc", đó là tờ hài hước hay đánh phá ?

- À, tờ đó ghê lắm. Đó là tờ hài hước. Mà muốn hài hước thì độc giả phải biết yêu tiếng cười. Từ xưa đến nay, dân tộc ta là dân tộc thích cười nên hài hước mọi chuyện dù là chuyện tôn nghiêm nhất. Ông Nguyễn Văn Vĩnh viết : "An Nam ta cái gì cũng cười, người ta khen cũng cười mà người ta chê cũng cười. Nhe răng hì một phát là mọi chuyện coi như hết". Chính cái cười đó nó mới đẻ ra cái tinh thần dân chủ. Mấy ông bây giờ cứ nhân danh dân chủ mà lại sợ nụ cười của dân chúng. Muốn có dân chủ mà lại sợ cuời thì dân chủ thế chó nào được ? Các ông các bà ấy làm gì tầm bậy, người ta cười thì kêu ầm lên là bị đánh phá. Các ông các bá ấy hối lộ tham nhũng, thụt két, vợ nọ con kia, người ta cười thì cũng la lên là bị bọn báo chí nó chửi bới làm tiền. Mà thời đệ nhị Cộng Hòa, bọn lố lăng đó nhiều lắm, một tờ Con Ong viết không hết các chuyện dởm, chuyện phản dân hại nước của các ông các bà tập sự lãnh đạo đó, vì thế mà Con Ong bị gán là tờ báo chửi mà người ta quên gía trị hài hước của nó.

- Bạn lăn vào lãnh vực đó, bạn cũng biết gió tanh mưa máu, nhưng sao bạn cứ tiếp tục ?

- Không lẽ mũ nón che tai à ? Không lẽ câm miệng khi thấy những chuyện thối tha ăn hại đái nát à ? Tôi đã nói với bạn, tôi là gốc bần cố nông, thuở nhỏ đã chứng kiến cảnh bố mẹ tôi bị ức hiếp, bị đì mọi thứ đè lên đầu nên tôi hay nổi giận khi thấy bọn cường quyền làm bậy. Chúng nó khi thấy tôi chửi thằng khác, chúng nó khoái lắm chứ, chúng nó khuyến khích tôi chửi thêm mà, cho tôi tài liệu để đánh cho trúng huyệt mà, thế nhưng khi tôi quay ngòi bút hỏi thăm nó thì nó nổi giận, nó tấn công tôi, bôi nhọ tôi...

- Nếu quả như bạn nói thì người dân thầm lặng phải khoái bạn lắm chứ, sao cũng có nhiều người không thích bạn ?

- Dân mình khoan dung lắm. Nhưng dân mình cũng đa nghi. Một số hay nghĩ rằng bọn nhà báo ăn tiền phe này đánh phe kia vì quyền lợi cá nhân, phe nhóm mà không nhớ cũng còn một số ngòi bút bảo vệ lẽ phải và sự thật. Tôi cũng được an ủi là rất nhiều người thương tôi, hiểu tôi chứ.

- Vì thế bạn vẫn muốn làm báo hài hước ?

- Có thể nói tôi thích loại văn chương này. Cũng có thể nói tôi yêu dân tộc tôi. Thời xưa, trong xã thôn, dân ta đã biết cười. Những bài văn hài hước của cổ nhân, gần đây như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương vân vân đều được coi trọng. Các cụ ấy chỉ làm mấy câu thơ thôi, đả kích một hiện tượng xấu nào đó và dân gian truyền tụng thì bố bảo kẻ đã gây hiện tượng xấu đó dám tái diễn. Chính bọn độc tài ở cả hai miền đã dập tắt nụ cười của dân chúng. Bọn này được một số trí thức vô tài toa rập để xin miếng đỉnh chung. Chúng nó chỉ mang cái bằng cấp để lòe thiên hạ nên chúng nó sợ thiên hạ biết bộ mặt thật của chúng nó. Vì thế chúng nó tấn công các cây viết hài hước trước bằng luận điệu như nhà báo nói láo ăn tiền, và đánh phá để moi tiền vân vân. Bây giờ thì dân ta hết cười nổi rồi.

Duyên Anh trở mình đứng dậy một cách khó khăn. Thân thể anh bự hơn trước nhưng đó là kết quả của những ngày ít vận động. Nhìn theo dáng anh đi chập chững nhờ công sức dồn từ tay trái xuống chiếc ba toong bằng nhôm xám, tôi thở một tiếng thật dài. Chàng thanh niên 19 tuổi làng Tường An ở Thái Bình, năm 1954 thực hiện một chuyến đi dài, vào miền Nam cùng lớp người đi tìm tự do nhưng chàng thanh niên này không ý thức mình bỏ quê hương vì phản kháng cộng sản. Chàng ta đi một mình, tớ­i Sài gòn mưu sinh bằng đủ công việc lặt vặt từ giữ xe đạp tới quảng cáo cho gánh xiếc trên hè phố để bán thuốc kiểu Sơn Đông mãi võ, rồi kèm trẻ tư gia, rồi dạy đàn guitare ở Hậu giang. Bây giờ thì chàng thanh niên ấy thành một lão già tàn phế. Lão già này đang trôi dạt tới Los Angeles. Mai đây, định mệnh sẽ đưa lão già này tới đâu và nơi nào sẽ là chốn an nghỉ cuối cùng của lão ?

Nhớ lại tôi đã quen biết Duyên Anh hơn bốn mươi năm, và lúc này nhìn Duyên Anh trong tôi cũng sống dậy những hình ảnh trong bốn mươi năm đó, lòng tôi chùng xuống một nỗi buồn man mác... Một đời của chúng tôi đã gần qua. Tôi nhớ lại có lần đi ăn cưới mà chú rể 61 tuổi, tôi lại nghe một ca sĩ giúp vui lên sân khấu ca bài "60 năm cuộc đời". Cuộc đời dưới mắt người nhạc sĩ này chỉ tính có 60 năm mà 20 năm đầu thì thơ dại, 20 năm sau thì bết bát, thành ra chỉ có 20 năm giữa. Thế mà chú rể đã 61 tuổi. Chú rể đã là người ở lậu, cư trú bất hợp pháp trên cõi trần gian này. Hôm đó tôi đã yêu cầu cô ca sĩ nâng cuộc đời lên 80.

Tuy quen biết Duyên Anh trải gần cả cuộc đời nhưng chúng tôi lại ít gặp nhau. Sau khi chia tay ở trại di cư Nhà Hát Lớn Sài gòn, mãi đến năm 1962 tôi mới gặp lại Duyên Anh khi anh xuất bản cuốn Hoa Thiên Lý, tập truyện đầu tay của anh. Năm ấy Duyên Anh đã 27 tuổi, đã mưu sinh bằng nghề viết báo. Rồi tôi nghe Duyên Anh làm ở tờ Xây Dựng, cơ quan ngôn luận bán chính thức của Thiên Chúa giáo Việt Nam năm 1964. Từ 1968 thì Duyên Anh biến thành chục biệt hiệu khác nhau, tung hoành trên tờ Con Ong, trở thành tay đánh phá với phe quốc gia và trở thành tên Biệt Kích Văn nghệ với đảng cộng sản. Cuốn "Những tên Biệt kích của Mặt Trận Văn Hóa Tư tưởng Miền Nam" của Việt cộng in năm 1980, Duyên Anh bị Việt cộng coi là một cây bút nguy hiểm cho chế độ của họ. Đang miên man nghĩ thì Duyên Anh đã chập chọang trở lại ghế ngồi. Tôi hỏi :

- Tới nay bạn đã viết được bao nhiêu tác phẩm ?

- Tôi đã in 64 cuốn truyện ngắn truyện dài.

- Vậy là kỷ lục trong lịch sử văn học Việt rồi.

- Tôi không viết vội để đạt một kỷ lục về số lượng. Tôi viết vì sự thôi thúc của dĩ vãng và của sự quằn quại với lịch sử đất nước. Như mọi người trong thế hệ chúng ta, khi mới 10 tuổi tôi đã chứng kiến cảnh Nhật đảo chính Pháp. RồI sau đó, tôi đã đi đếm xác những dân làng tôi bị Nhật làm cho chết đói. Rồi thì cách mạng Tháng Tám tiêu thổ kháng chiến, dân làng tôi bồng bế chạy lọan. Tuổi thơ và tuổi trẻ của tôi đã mất hết trong cách mạng và chiến tranh. Nếu cộng sản không bắt tôi tù 6 năm, nếu tôi không bị người ta đánh liệt óc, liệt tay phải thì tôi đã có trên 100 tác phẩm.

- Ở Sài gòn, tôi có nghe bạn còn viết một số bài diễn văn, phát biểu trước nghị trường cho một số chính khách, phải không ?

- Có.

- Động lực nào khiến bạn viết ?

- Họ trả tiền thì tôi viết ?

- Những ai nhờ bạn viết ?

- Hai nghị sĩ và 4 dân biểu. Họ nói với tôi là nhờ những bài của tôi mà họ nổi đình nổi đám.
- Tôi thấy bạn đa diện, viết nhiều thể loại, lại sáng tác nhạc, làm thơ nữa... Bây giờ, theo bạn thì bạn thích nhất diện nào ?

- Tôi thích làm thơ nhất. Nhưng tôi làm thơ không hay. Thời gian mà tôi làm thơ nhiều nhất là lúc ở trong tù. Lúc ra tù tôi còn nhớ lại được 34 bài.

- Kinh nghiệm trong tù của tôi là rất nhiều người tù làm thơ, và thơ viết về vợ con...

- Không, đề tài của tôi là thân phận của mình.

- Bạn vượt biên năm nào ?

- Năm 1983. Vợ con tôi đi chính thức năm 1982, chúng nó không cho tôi đi cùng danh sách nên tôi phải tìm đường vượt biên. Tôi xuống tàu ở Nhà Bè, 6 ngày sau thì tới đảo Paulo Bidong của Mã Lai. 6 tháng sau thì sang Pháp. Cũng may là do sống ở Pháp mà tôi có cơ hội quen biết với một số nhà xuất bản và họ đã mua bản quyền, dịch sách của tôi ra Pháp ngữ. Tới nay họ đã dịch xong 5 cuốn, còn hai cuốn mới ký. Cuốn Đồi Fanta đã được tái bản và được làm thành phim.

Duyên Anh ao ước sách của anh cũng sẽ được dịch ra tiếng Mỹ. Để đạt mục tiêu này, anh viết về chủ đề người Mỹ, chẳng hạn cuốn Một Người Mỹ ở Sài gòn và mới đây là cuốn Những Đứa Trẻ Con lai Mỹ Hẩm Hiu... Ngồi bên tôi, anh mơ ước người Mỹ sẽ hiểu văn hóa văn nghệ của dân tộc Việt Nam nhiều hơn. Theo anh thì khi người Mỹ tới giúp Việt Nam chống cộng là tốt nhưng vì không hiểu gì về dân tộc ta, coi thường, coi khinh người Việt, thành ra thấy bọn nịnh bợ, thích làm tay sai là khoái, điều này đã gây bất mãn cho dân chúng mà hậu quả là thái độ chống Mỹ lan tràn khiến Mỹ không còn là đồng minh mà trở thành kẻ thù.

Tôi ngồi yên không hỏi thêm, mặc cho Duyên Anh sống với chính anh. Trong giờ phút thành phố Los Angeles đã ngủ thì quê hương của Duyên Anh và của tôi đang thức. Tôi nghĩ, tôi hy vọng trái tim Duyên Anh đang đập chung nhịp với Việt Nam dù đất nước cách xa chúng tôi nửa vòng trái đất.

Đỗ Tiến Đức
Tháng 10, 1995.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sat Sep 24, 2022 6:21 pm



Nguyễn Vy Khanh nói về Duyên Anh

Damau
 
Hưng Việt: Thưa anh Vy Khanh, trước hết xin anh lược qua tiểu sử của anh?

Nguyễn Vy Khanh: Tôi sanh năm 1951 tại Quảng Bình nhưng mới một tuổi đã được bố mẹ đưa vào Huế rồi từ năm tuổi vào sống hẳn ở Sài Gòn. Hơn một năm trước khi rời Việt Nam cuối tháng 4-1975, tôi được bổ nhiệm dạy trung học tại Nha Trang. Thơ văn khởi từ trên ghế trung học nhưng chỉ có một tập thơ mỏng Khung Cửa in giới hạn năm 1972. Viết tiểu luận triết lý từ năm đệ Tam và bắt đầu nghiên cứu triết đông phương và văn học sử khi học ở đại học Sư Phạm Sài Gòn khoảng 1970. Rời Nha Trang đầu tháng Tư 1975 và Sài Gòn ngày 29 sau đó, đến đảo Guam rồi Canada, một năm sau đi học tiếp Cao học Quản Trị Thư viện và làm công chức ngay sau khi nhập quốc tịch Canada đầu năm 1979 cho đến nay. Hiện sinh sống tại thành phố Montréal thuộc tỉnh bang Québec, Canada.

HV: Anh có quen biết nhà văn Duyên Anh không? Nếu có xin anh cho biết trong trường hợp nào ?

NVK: Tôi thuộc thế hệ đàn em, quen Duyên Anh vì hai lý do : nhà tôi ở Tân định, qua cầu Phú Nhuận một quãng là cư xá nhà Duyên Anh nơi tôi có một số bạn bè học chung trung học đệ nhất cấp, thứ nữa tôi từng là BB (Nhật Lệ nếu tôi nhớ không lầm!) có thơ đăng trên phụ trang nhật báo do Duyên Anh phụ trách và có được mời đến tòa báo một đôi lần ở đường Hồ Xuân Hương. Khi Búp Bê trở thành tuần báo, tôi đã qua tuổi … BB, bắt đầu trung học đệ nhị cấp, bạn bè lúc ấy đã gọi tôi là “ông cụ non”!

HV: Xin anh cho biết thêm về sự liên hệ giữa nhà văn Duyên Anh và tuổi trẻ VN trong các tác phẩm của ông trước và sau năm 1975?

NVK: Câu hỏi này, tôi xin trích vài đoạn của bài tôi viết cách đây đã năm năm, lúc bấy giờ tôi chỉ nói sơ lược giai đoạn sau 1975 :

“(…)

Tuổi thơ được Duyên Anh chăm sóc rất kỹ trong văn nghiệp của ông. Trước hết với Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ, bộ truyện gồm 6 quyển mà khung cảnh là tỉnh lỵ Thái Bình những năm 1944-1954: Thằng Vũ, Thằng Côn, Thằng Khoa, Con Thúy,… Thằng Vũ được khởi viết vào những năm cuối cùng làm công chức trước cách mạng 1-11-1963. Tuổi thơ lồng trong thảm cảnh của chiến tranh, của tù đày, bạo động, phản trắc, của chia cách, của những vùng tề, vùng tiếp thu. Bộ truyện Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ là “lịch sử mười năm được nhìn và suy nghĩ bởi tuổi thơ. Điều tôi định sẽ nói lên trong Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ là con người sẽ xây dựng lại tất cả, nhưng sự đổ vỡ về tình người thì không thể xây dựng lại được” (11), vì xuất phát từ nỗi thất vọng của tác giả về chiến tranh, về cái hoàng hôn xám tình người lạnh lẽo và hờ hững. “Tất cả cho cách mạng Tháng tám. Còn gì nữa mà cho. Vàng cho hết rồi. Niềm tin cho hết rồi” (Con Thúy, tr. 187). Cách mạng đã cướp mất tuổi thơ, đã khiến tuổi thơ sống đày đọa trong khói lửa và bạo động. Cách mạng dạy con người đánh mất tính người.

Đến các truyện Dzũng Đa-Kao, Chương Còm, Bồn Lừa, Hưng Mập, … một tuổi nhỏ mới của miền Nam phải đương đầu với chiến tranh mới Bắc-Nam. Tuổi thơ này muốn làm anh hùng dân tộc (Mơ thành người Quang Trung), thủ quân kiêm trung phong của đội tuyển thiếu niên làm đẹp dân tộc (Bồn Lừa). Đưa trẻ em hư hỏng ở vỉa hè vô trường học (Giặc Ô-Kê). thành thị kết tình với tuổi thơ nông thôn (Hạ Ơi), kinh với thượng (Gấu Rừng). Có khi tuổi thơ chỉ mơ hết nghèo khổ, được bước chân vào lớp học. Giấc mơ của những em bé đánh giày được có ăn, có mái ấm gia đình, được đến trường (Luật Hè Phố).

Một tuổi thơ dù ở Bắc ở Nam, trước hay sau 1954, con nhà giàu (Hoàng Dung, Elvis Dậu, Chương Còm, Đoàn Dự, Thiện Mông Cổ, ..) hay nghèo (Thằng Vũ, Bồn Lừa, Dũng Đa-Kao, Danh Ná, ..) hay con lai rơi rớt (Jimmy, Bill, Jack, ..), tất cả đều là những ánh bình minh rực rỡ tình người, rộn ràng tình bạn, những thương yêu trìu mến. Dù ngoại cảnh đầy bạo động, chiến tranh, máu và nước mắt. Duyên Anh viết cho tuổi thơ vì ông “không có tuổi thơ”, “thèm tuổi thơ nên viết để giải tỏa những uẩn ức, những thèm khát” (1) như ông đã từng thú nhận sau này. Viết về tuổi thơ cũng là viết về gia đình, quê hương bỏ lại khi đã di cư vô Nam. Nếu đúng như tiết lộ của nhà văn Đỗ Tiến Đức bạn thân với Duyên Anh từ khi cả hai di cư vô Nam ở chung trại tạm trú, Duyên Anh đã để vợ con lại quê nhà ngoài Bắc, người đọc có thể hiểu thêm nỗi lòng nhớ vợ con của ông. Duyên Anh lập lại cuộc đời mới trong một hoàn cảnh éo le dễ được thông cảm, dù gia đình mới trong Nam ông vẫn chứng tỏ chồng cha gương mẫu. Viết về tuổi thơ là Duyên Anh viết cho ông, với tình thương cho cô con gái ngoài Bắc và với hạnh phúc ba đứa con trong Nam.

Cái tuổi thơ trong tác phẩm của Duyên Anh cũng như trong tác phẩm của Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, Tô Hoài, vv của văn chương Việt Nam là tuổi thơ văn chương, tuổi thơ của mọi người và nhiều người, tuổi thơ đã phổ quát. Tuổi thơ đã qua đã sống của mỗi người đã trở thành một phần đời, phần trời gió có thể đã thoảng trôi mà cũng có thể đã ảnh hưởng đến cả phần đời người lớn, cả sự nghiệp, chí hướng. Đối với nhiều người, tuổi nhỏ trở thành khung trời trú ẩn, thành một vùng tâm thức kỳ diệu ủi an để quay về khi con người phải đương đầu với những thực tế ê chề, khó khăn. Một cõi sống có thể thần linh – người ta vẫn nói thiên đàng tuổi thơ. Một cõi sa mù hay kỳ diệu có giá trị trị liệu. Ngày hôm nay khô cằn hoặc chỉ còn là bã là rác sẽ cần đến khoảng sống thần tiên đó để làm mới lại cuộc đời, chỉnh đốn lại cái sống, làm mạnh cái sống. Và ngược lại, tuổi thơ có thể như một căn bệnh kinh niên bất trị, như một sổ mũi, nhức đầu nhè nhẹ rồi qua đi nhưng sẽ luôn trở lại. Tuổi nhỏ đó còn là tiềm thức hay vô thức sẽ ảnh hưởng hiện tại và ý thức của con người.

(…)

Đặc điểm của văn chương tuổi nhỏ còn ở nơi ngôn ngữ. Một ngôn ngữ bình dị hồn nhiên mà trong sáng. Thành công của Duyên Anh khiến ông một thời trở thành hiện tượng, phần lớn do ở những tác phẩm về tuổi thơ nói trên. Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt dù không biết Trà Lý ở đâu nhưng đã phải công nhận “Hình ảnh thiên đường và đất hứa của tuổi trẻ trong tác phẩm của Duyên Anh, tuổi trẻ được phục sinh vừa thơ mộng kỳ diệu, vừa phẫn nộ trong lầm than một vùng nhân thế” (11).

Tuổi trẻ

Duyên Anh viết và xuất bản những tác phẩm về tuổi trẻ khi miền Nam đang trên đà xây dựng, tổ chức và các phong trào thanh niên sinh viên học sinh được các chính quyền đệ nhất và đệ nhị cộng hòa phát động cũng như tổ chức. Và kẻ thù cũng đã có những xâm nhập. Tuổi trẻ xuống đường, chống độc tài (hiến chương Vũng Tàu), chống chính khách xôi thịt, chống Mỹ, … và chống cả đi lính, đòi hòa bình, thống nhất đất nước.

Trong khi đó tuổi trẻ của Duyên Anh lãng mạn nhưng có ý thức và yêu nước. Lãng mạn, theo những tập đoàn cách mạng một cách thành tâm nhưng ngây thơ trước thủ đoạn. Ảo Vọng Tuổi Trẻ kể chuyện những người trẻ tuổi đi làm cách mạng, chống độc tài và cộng sản, lên cao nguyên, về miền Đông và thủ đô rốt cục bị lãnh tụ lừa gạt, đi đêm với quyền lực và chức tước. Tuổi trẻ bị ảo vọng, ‘thua bạc’, mất cả vốn liếng lý tưởng và tuổi trẻ, đâm ra phẫn nộ. Họ “đã ngủ sầu trong đất”, không cần đến những đàn anh thê thảm và khốn nạn.

Duyên Anh trong Ngựa Chứng Trong Sân Trường tiếp tục ý hướng giáo dục, muốn đề cao tình nghĩa trong một xã hội đầy bạo động và giá trị văn hóa không còn. Rồi trong “tâm bút” Bò Sữa Gặm Cỏ Cháy, Duyên Anh đã mong tạo được những thần tượng thiếu niên nhi đồng và đào tạo được một thế hệ hết mình bảo vệ miền Nam và ngăn chặn đám giải phóng theo chỉ thị của miền Bắc, ngay từ những lứa tuổi 14, 15. Võ Trụ trong Bò Sữa Gặm Cỏ Cháy “quên thân mình cứu người phi công Mỹ lâm nạn” (tr. 34), Danh Kê cướp xuồng máy và súng của cộng sản ở Kiên Giang để khi lớp “đàn anh chết đi, có thể vững dạ tin tưởng ở thế hệ rường cột xâm mình chiến đấu, chiến thắng cộng sản” (tr. 43).

Nếu các truyện về tuổi thơ là chuyện của Duyên Anh và bạn bè trang lứa thì những tiểu thuyết về tuổi trẻ đã là kết hợp từ những kinh nghiệm cá nhân của tác giả thời mới vô Nam và cả khi làm báo, công chức.

Tuổi trẻ bụi đời và du đãng là hai loại tiểu thuyết mà Duyên Anh đã hơn một lần phân biệt hai khuynh hướng đó. Tuổi trẻ bụi đời, trẻ mồ côi có Luật Hè Phố và Dấu Chân Sỏi Đá. Luật Hè Phố là thế giới của Danh, Lựa, Dân, vv những đứa trẻ đánh giày, ở viện mồ côi ra, sống bụi đời, không lựa chọn; là thế giới của bọn đầu trâu như Quý Đen, vua đánh giày.

(…)

Đến loại tiểu thuyết gọi là du đãng, Duyên Anh đã cẩn thận nhấn mạnh : “Tuổi trẻ bơ vơ, thèm xả thân cứu giúp đời, mà rốt cuộc tinh thần hào hiệp đó biến thành tinh thần du đãng” (ĐRNM, tr. 107). Đã hơn một lần, cũng trong Điệu Ru Nước Mắt, Duyên Anh nói về những người trẻ tuổi này là “những thằng trong sạch nhất trong xã hội” (tr. 274), “du đãng nhiều thằng lương thiện gấp bội những thằng to tiếng đòi giáo dục du đãng” (tr. 107) hay “xã hội du đãng cũng ăn đứt xã hội đạo đức giả”. Chúng nỗi loạn vì cô đơn, “nổi loạn tâm hồn” vì “bất mãn gia đình, học đường, tổ quốc”, hoặc thù đời, “khinh miệt cuộc đời, vì cuộc đời cứ coi nó là du đãng ” (tr.81).

Thất vọng một xã hội không có chỗ đứng, bất mãn trước bất công xã hội, chúng “nổi loạn đánh chém, hiếp dâm, cướp ngày, tống tiền để trả thù xã hội”, “sống tách riêng ra một xã hội” (tr. 107) . Nổi loạn làm du đãng như không còn lựa chọn. Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa Hoang: chuyện Du Chột bắt cóc đòi tiền chuộc nhà buôn giàu không thành vì Hoàng Guitar đàn em của hắn quyết chí trở lại con đường lương thiện làm sai kế hoạch. Chuyện hoàn lương cũng không dễ một khi đã ở lâu với xã hội đó, cuối cùng trở thành thảm kịch. Hoàng Guitar có học, biết điều, giang hồ đã cuối cùng muốn sống như mọi người có vợ có con và đủ ăn mà cũng không thể được trong một xã hội nhiều mắc lưới đó.

(…)

Xã hội này có luật lệ của nó nhưng cũng có những phẩm tính tốt như chúng yêu thương nhau, biết đùm bọc nhau. Có tuổi trẻ vì hoàn cảnh mà đi du đãng như Trần Đại, Nguyễn Đạm, Trần Long, Trần Thị Diễm Châu, Lê Hùng, v.v. đã học xong trung học, có đứa đậu cả tú tài Pháp. Chúng cũng hào hoa phong nhã và “rất nghệ sĩ”. Một đính chính cho cảm thông. Vì tuổi trẻ đường xá này sẽ chấp nhận hoàn lương, vào trường các nữ tu như trong Trần thị Diễm Châu “xã hội không cải thiện cuộc đời của du đãng thì nội trú Hòa Hưng sẽ cải thiện họ”. Và tuổi trẻ du đãng cũng sẽ nhập ngũ làm bổn phận công dân thời chiến. Một nhân vật của Sa mạc tuổi trẻ : “quân đội là nơi lý tưởng nhất để nó làm lại cuộc đời” và “kỷ luật quân đội dạy người lính trở nên chín chắn, biết yêu biết ghét đúng đắn” (tr. 337). Trần Đại của Điệu Ru Nước Mắt được đàn em James Dean Hùng khen “Anh Trần Đại được làm tướng đi đánh nhau với cộng sản, chắc chắn anh ấy thương lính của anh ấy như thương chúng mình, anh ấy lại ‘cừ’ nữa, cộng sản cứ gọi là hết ngáp…” (tr. 274).”

HV: Còn về mặt chính trị, anh nhận định thế nào về tư tưởng chống cộng của nhà văn Duyên Anh, một “Biệt kích văn nghệ cực kỳ nguy hiểm của chế độ”?

NVK: Đây là ngôn ngữ lúc chiến tranh quốc-cộng còn hực lửa tranh giành ai thắng ai, do đó ai cũng có thể là kẻ thù. Bây giờ nhìn lại thì thấy có thể đó là một căn bệnh chung nhưng có thật. Riêng trường hợp Duyên Anh thì rõ là kẻ thù của chế độ cộng-sản : ông là nhà văn mà lại là nhà văn nổi tiếng, được ưa thích, nhất là giới trẻ; sự nghiệp của ông dành phần quan trọng cho tuổi trẻ thơ mộng ở quê nhà Thái Bình của ông cũng như tuổi trẻ hè phố đáng thương ở Sài Gòn; ông lại di cư năm 1954 và cuối cùng, trong tác phẩm ông nhiều lần lý luận chống chủ nghĩa cũng như con người cộng-sản !

HV: Tuy nhiên ở hải ngoại, nhà văn Duyên Anh lại bị cô lập, có phải chăng vì dư luận cho ông là “Ăng ten” (antenne) ? Anh nghĩ gì hoặc biết gì về dư luận trên?

NVK: Chuyện này có nhiều nguyên nhân. Làm ăng-ten hay không ở trong các trại “cải tạo” không ai có thể nắm sự thật hết, ngay cả cai tù cộng-sản. Có người nín thở qua cầu, có kẻ muốn tâng công để được yên thân hoặc về sớm, nhưng những kẻ đáng trách là những kẻ làm hại bạn mình, đồng nghiệp mình đến chết vì thù oán. Sống trong cảnh mất tự do, bị dòm ngó, theo dõi, thì cái chết của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn vốn đã yếu về thể chất, nếu không có bằng chứng rõ rệt thì không thể kết cho Duyên Anh được. Phải nói là người ta nhân cái chết đó để tung hỏa mù thì đúng hơn. Dĩ nhiên sẽ dễ hơn nếu đương sự nhìn nhận và xin lỗi như trường hợp nhạc sĩ VTA.

Khi Duyên Anh ra đến hải ngoại thì đã có một số hồi-ký cải tạo kể những chuyện không thật, Duyên Anh lại cho ra ba cuốn hồi ký (Nhà Tù, Nhìn Lại Những Bến Bờ, Sài Gòn Ngày Dài Nhất) thế là rối rắm thêm và Duyên Anh đã trở thành “nạn nhân tiêu biểu” kéo dài của xã hội miền Nam. Một số nhóm cựu tù cải tạo và kẻ thù của ông trước 1975 hợp nhau để “kết án” ông. Tưởng cũng cần biết là trước 1975, dưới bút hiệu nhà báo Thương Sinh, Duyên Anh đã gây thù chuốc oán khá nhiều, một phần do ông trên đà thành công nổi tiếng, một phần ông bị xúi hoặc mua chuộc và cả đe dọa. Duyên Anh và Thương Sinh đánh không chừa một ai, kể cả giáo sư Nguyễn Văn Trung, nhà văn Trần Phong Giao phụ trách tạp chí Văn (ông TPG mất job ở Văn phần nào đó cũng vì Duyên Anh và áp lực Nguyên Sa), v.v. Cuối cùng người ta nói các cô ca sĩ có yêu nhau bao giờ, áp dụng cũng đúng trong trường hợp Duyên Anh. Duyên Anh và vợ chồng Nhã Ca là những nhà văn nhà báo hiếm hoi nổi “cơ đồ” nhờ vào tác phẩm bán chạy!

Cuối cùng chuyện Duyên Anh bị cô lập và đả thương thành tật nguyền, Duyên Anh vào cuối đời đã không nói đến dù được hỏi (X. phỏng vấn của Đỗ Tiến Đức. “Duyên Anh, cuối đời” trên tạp chí Văn Học CA (131, 3-1997, tr. 108-125)). Và nếu muốn công bằng cũng nên xét đến đời tư riêng của Duyên Anh vào những năm cuối cùng!

HV: Cách đây không lâu anh đã có một bài viết về nhà văn Duyên Anh, xin anh cho biết động cơ nào thúc đẩy anh làm việc này ?

NVK: Bảy năm trước đây, tôi bắt đầu viết thử một tập văn học sử biết gì nói nấy cốt để lại cho giới trẻ hơn, sau hơn hai mươi năm nghiền ngẫm và đọc, mục đích để ghi lại phần nào chân dung của một nền văn học bị kẻ chiến thắng cưỡng chiếm miền Nam sổ toẹt. Một trong những tác giả tôi bắt đầu xem lại và viết là nhà văn Duyên Anh.

HV: Được biết bài viết của anh đã gặp nhiều khó khăn khi phổ biến qua báo chí, anh có thể giải thích lý do về hiện tượng bất bình thường đó ? Phải chăng một “thế lực ngầm” nào đó cản trở các báo, tạp chí đó nói về Duyên Anh?

NVK: Như câu hỏi các em đã nói đến “thế lực ngầm”, tôi cũng nghĩ thế! Các tạp chí về văn học người Việt ở hải ngoại tập trung ở Quận Cam California, ở đó đã thành một xã hội mà người sống nương, nể nhau mà sống (kể cả áo thụng vái nhau). Thế lực đó còn nhìn thấy trong vụ Duyên Anh bị đả thương mà không ai dám cứu, ngay cạnh phòng mạch bác sĩ Việt Nam nào đó cũng là nhà văn! Rồi ngay cả vài người từng là bạn của Duyên Anh trước khi ông mất cũng trở nên “rét” khi ông đã thật sự ra đi! Con người ta vì sống còn, vì muốn giữ “danh giá” còn sót lại nên họ phải đồng minh, nương nhau mà sống và bỏ rơi người bị đa số hay thiểu số hiểu lầm, ngộ nhận! C’est la vie, quelle misérable vie!

Qua kinh nghiệm này và một số liên hệ với giới văn hóa và viết lách hải ngoại sau đó, tôi cũng nhận ra có những quyền lực vô hình khiến cho một số sinh hoạt của người Việt ở ngoài nước trở nên bất bình thường.

HV: Anh Lê Xuân Quỳnh, trước năm 1975 làm việc cho Việt Tấn Xã, đã ở chung trại cải tạo với hai anh Duyên Anh và Nguyễn Mạnh Côn. Anh Quỳnh đã viết một bài rất dài và đầy đủ về cái chết của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn hoàn toàn không dính dáng đến anh Duyên Anh. Tại sao các hội đoàn văn bút hải ngoại không làm sáng tỏ sự việc để rộng đường dư luận? Một thông cáo chính thức – đặc biệt là văn bút – chắc chắn sẽ xóa bỏ những tin đồn thất thiệt về anh Duyên Anh. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa thấy!!! Như thế, theo anh, có phải thù oán cá nhân là nguyên nhân chính về tin đồn “Duyên Anh ăng ten”?

NVK: Như đã trả lời ở câu hỏi trên, tôi tin rằng tin đồn đó do nhiều nguồn : 1, tư thù và ghen tương cá nhân, 2, chính quyền cộng-sản trong nước (nên nhớ Duyên Anh không được xuất ngoại theo gia-đình qua Pháp năm 1983 – mà phải vượt biên cùng năm 1983). Còn chờ đợi ở Văn Bút, nên quên thì hơn!

HV: Làm sao để phục hồi lại danh dự cũng như đặt nhà văn Duyên Anh vào đúng vị trí xứng đáng của ông?

NVK: Danh dự như là nhà văn thì tôi nghĩ Duyên Anh đã có và sẽ còn tồn tại lâu dài khi nào vẫn còn tình yêu và tuổi thơ cần có một thế-giới riêng, khác người lớn. Những người yêu quí văn tài Duyên Anh xin cứ tiếp tục tiếp nhận và cảm nghiệm những gì tích cực và đẹp trong tác phẩm của ông, như sư huynh Pierre Trần Văn Nghiêm đã có dịp dịch truyện của Duyên Anh ra tiếng Pháp (Enfants de Thai-Binh, Colline de Fanta) và viết về Duyên Anh trên các tạp chí Pháp.

Ngày hôm nay làm được gì cứ làm, nếu không, thời gian cũng sẽ trả lời. Chiến tranh Nam-Bắc đã chính thức chấm dứt từ ngày 30-4-1975, nhưng cuộc chiến đó đến nay, 27 năm sau, vẫn chưa hoàn toàn ngã ngũ, cần nhiều thời gian nữa thì những sự thật sẽ lộ diện lại như là sự thật (cũng như những giả dối, tuyên truyền, mạo nhận, bôi bác, v.v.).

HV: Anh đã đọc các bài thơ của anh Duyên Anh? Có thể cho chúng em một vài nhận xét , quan điểm của anh về thơ Duyên Anh?

NVK: Thơ Duyên Anh không có gì đặc sắc về văn học : đơn sơ, bình dị; nhưng được viết bởi tấm lòng thành thật và yêu đời.

HV: Là một nhà văn, anh nhận định như thế nào về các đóng góp của nhà văn Duyên Anh trong nền văn học cận đại.

NVK: Tôi lại phải dùng lại những nhận xét của mình trong bài đã viết :

“(…)

Trong hơn hai mươi năm văn học miền Nam, Duyên Anh đã là một trong số những hiện tượng văn học. Hiện tượng trước hết vì ông viết nhiều, sau vì ông có hẳn một chủ trương làm văn học và có đường lối văn chương của ông. Viết nhiều và các tác phẩm về sau có khi hay lập lại, có khi trích dẫn thơ văn quá độ. Nếu trong nhiều tiểu thuyết xã hội ông liên tục tấn công cái Ác và đề cao tình người hay cái Thiện thì trong bộ truyện Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ, Duyên Anh liên tục làm sống cái xã hội và con người hiền hòa, thơ mộng. Hiện tượng vì sau hết, dù thành công, Duyên Anh vẫn tiếp tục chân thành với người đọc, không huênh hoang, tự cao hay thay đổi lối viết. Ông cũng đã cố gắng tách rời Thương Sinh nhà báo trong văn chương dù có khi yếu ớt. Duyên Anh đã thành công trung thành với người đọc của ông. Chính cái trung thành hỗ tương này làm nên thành công cho tác giả Thằng Vũ, ông trở thành hiện tượng, đại diện cho một giá trị nào đó, trở thành thân thiết, thành cái không thể thiếu, cái tất yếu, phải đọc; người đọc như đồng hóa với nhân vật và xã hội tiểu thuyết của ông, có khi gần mà như xa vì dù đơn sơ, bình dị, thế giới đó, tỉnh lỵ Trà lý hay Sài gòn, nhân vật đó – những thằng Vũ, con Thúy, em tôi, Trần Đại, Châu Kool, … vẫn như xa cách, lý tưởng quá chăng, hài hòa quá chăng – là những cái hiếm có trong xã hội thật. Mộng và thực như đời sống, ở nơi đây nhưng mơ mộng cái lý tưởng và xa xôi. Nếu thế giới thằng Côn con Thúy ở tỉnh lỵ quá đẹp, nên thơ, đáng mộng mơ thì thế giới Trần Đại hay Danh Lựa đánh giày,… quá tàn nhẫn; nhưng ở cả hai xã hội đó, cái ước muốn sống Thiện, sống đời bình thường có cha mẹ gia đình vẫn ở đó, vẫn là cái xương sống, cái lõi của những bầy nhầy khốn nạn trên bề mặt. Khi viết, Duyên Anh đã biết đối tượng của tác phẩm ông: viết cho những người như ông, mơ và sống một cuộc đời bình thường trong đó người đối xử với người với thành tâm, viết cho những người muốn sống bình thường nhưng vì nhiều hoàn cảnh đã không thể được, đã bị bứng ra khỏi thế giới đó. Duyên Anh đã không thuộc vào loại nhà văn viết cho mình, hay viết để mà viết, hay viết mà không cần người đọc, loại văn nghệ sĩ không tưởng, làm dáng, viễn mơ xa người đọc. Ông cũng không đề ra những câu hỏi nhân sinh hóc búa, những lý thuyết cho tương lai xa tầm với. Ông giới thiệu với người đọc những mảnh đời đẹp, có thể thần tiên, có thể khốn khổ. Tác phẩm của Duyên Anh cũng là những trả lời những gì người đọc có thể muốn biết, về cuộc đời, về con người.

(…)

Duyên Anh đã là hiện tượng vì ông thuộc về lớp nhà văn đã ảnh hưởng đến người đọc, những người trẻ, những người mất tuổi trẻ, những người sống bằng hoài niệm, bằng kỷ niệm và quá khứ, của người đô thị nhớ về đồng quê dung dị thời thanh bình. Người đọc ông có thể là người di cư từ phía Bắc tuyến 17 phải xa nơi chôn nhau cắt rốn, cũng có thể là người trẻ mới lớn ở miền Nam. Dù sao thì người đọc của ông không ít và ảnh hưởng có thể có của tác phẩm ông đã khiến những người cộng sản khi đã cưỡng chiếm miền Nam đã cấm sách ông và liệt ông vào số những người “biệt kích văn hóa tư tưởng”. Lý do là Duyên Anh đã làm cùng công việc của họ, đã dám ảnh hướng giới trẻ, dám giáo dục giới trẻ như đề cao tình thương yêu, tình người để đối chọi với căm thù và bạo động của cách mạng, đã dám “trồng người”. Duyên Anh đã dám “cạnh tranh” với những huyền thoại của họ như Kim Đồng (Kim Đồng của Duyên Anh trong Thằng Khoa người hơn), Duyên Anh đã tạo dựng những thần tượng tuổi thơ hiền lành nhưng hiểu biết trong tiểu thuyết, nhưng những thần tượng tuổi thơ này đã vượt thế giới tiểu thuyết để đi vào cuộc đời, đã ảnh hưởng giới trẻ trong Nam. Duyên Anh bị kết án “lừa gạt trẻ con”. Phải chăng sự kiện đây có thể giải tỏa nghi vấn về việc Duyên Anh bị đả thương thành tật nguyền ở hải ngoại và đã bị liên tục kết án? Duyên Anh đã “cứng đầu”, vẫn tiếp tục sứ mạng ông tự cho – viết cho tuổi trẻ, viết về tuổi trẻ và ước vọng nhân sinh của chúng.

Nếu nói Duyên Anh “chống cộng” thì là một thứ chống đối tự nhiên của một người dân bình thường không thích chiến tranh hoặc đã phải sống những đổ nát do chiến tranh gây ra. Ông không đưa ra những lý thuyết lớn như nhà văn các nhóm Quan Điểm, Thái Độ, Sáng Tạo,… Ông chống cái Ác và đòi hỏi sự thật và lẽ phải phải được tôn trọng. Ông cũng không viễn mơ vì ông đã nhìn thấy và đã biết với kinh qua thế nào là cách mạng mùa Thu, Duy Dân, là lý thuyết mới về xã hội cộng sản. Có thể ông biết ít, nhưng cái biết của ông đã đủ để ông chống chiến tranh và cộng sản!

Năm 1971, Duyên Anh đã quyết định bỏ nghề làm báo để chỉ làm xuất bản và ra báo cho tuổi trẻ. Quyết định có thể bắt nguồn từ những đụng chạm lớn trong nghề báo, từ những thành công khiến ông đi quá đà gây nhiều hận thù và bớt bạn, nhưng có thể ông đã hối hận về nghề báo đi sai đường hướng văn nghệ của đời mình. Duyên Anh có quá đáng khi làm báo ngoài những lý do bình thường, có thể cái quá đáng đó thúc đẩy bởi ước muốn công bằng xã hội. Bỏ chốn lụn bại báo chí, Duyên Anh trở lại, sống hết mình với thế giới trong sáng của tuổi thơ và tuổi trẻ. Sau 1971, ông đã viết tiếp bộ Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ và xuất bản những tiểu thuyết về tình yêu.

Niềm tin ở chân thiện, ở đời sống và con người, Duyên Anh tin một cách chân thành không màu mè; thể hiện ở câu chuyện, cách hành văn, không thuyết lý. Duyên Anh đã viết văn như đã sống với một tâm hồn thẳng thắn dù đã có lúc phải làm bất cứ nghề gì để sống còn, phải làm lại cuộc đời từ số không. Duyên Anh không có ý làm mới ngôn ngữ. Nói chung, ông xử dụng một ngôn ngữ bình thường, dung dị hợp với câu chuyện và nhân vật của ông, tất cả như vừa tầm mọi người. Ngay cả khi ông mơ mộng hay viết về cách mạng.

(…)

Duyên Anh viết về giới trẻ du đãng, bụi đời có thể đã đáp ứng một thị hiếu của độc giả; nhưng thiển nghĩ ông không viết về tuổi trẻ này hoàn toàn vì thị hiếu cao bồi du đãng để thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ mà ông còn có một mục đích giáo dục, đề cao với một cái nhìn khá từ bi, thông cảm. Khi viết về tuổi thơ, phải công tâm công nhận văn chương tuổi thơ của Duyên Anh khá trĩu nặng đau buồn của quá khứ, mất mát, có ngụ ý, có cả hối hận. Trong khi đó những nhà văn sau ông như Hoàng Ngọc Tuấn, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện,… viết về tuổi thơ và tuổi trẻ với một tâm hồn trong sáng hơn. Không khí tiểu thuyết của họ vui và nhẹ nhàng hơn, thực tế hơn mà tình yêu cũng thật sự mộng mơ gần gũi hơn.

Duyên Anh trong một thời gian dài đã trở thành một hiện tượng văn học vì tác phẩm của ông đã đáp ứng được một phần những nhu cầu của thời đại, những nhu cầu văn hóa, tâm lý, xã hội của đại chúng. Với sự leo thang của chiến tranh, khi xã hội khủng hoảng trầm trọng về văn hóa, đời sống, một số tác phẩm của Duyên Anh với ý hướng giáo dục đã đáp ứng được một số mong đợi. Đừng đòi hỏi ở ông những đáp ứng triết lý siêu hình của thời đại. Duyên Anh chỉ nói tiếng nói của đời sống thường nhật, của những ngừời con, những bậc cha mẹ, những thầy giáo hay những trẻ bụi đời hay thanh niên du đãng. Và ông trung thành với đường hướng đó. Mục đích hay chủ ý trong tiểu thuyết của Duyên Anh cũng dễ nhận ra chứ không phải quanh co, lưỡng nghĩa.

Nhà văn Duyên Anh ngoài gần 50 tác phẩm đã xuất bản trước 1975 còn là tác giả những bài báo dưới nhiều bút hiệu khác nhau (những phóng sự Đi Tầu Suốt, Đầm Giao Chỉ,…) vẫn khiến hơn một người thắc mắc về cái mâu thuẫn con người hai mặt của ông, một thơ mộng và lý tưởng và một thâm độc, trào phúng. Khởi đi từ thế giới đã mất, từ những mơ mộng, Duyên Anh đã đi đến chỗ hẹn hò thỏa thuận với quá khứ và đã đưa người đọc vào một thực tế hàng ngày không giản đơn trước mắt, đã có những ý tích cực cho giới trẻ. Mất tuổi trẻ, sống ly cách, cuộc đời mới khó khăn khiến Duyên Anh có cái nhìn xoi mói về tha nhân có khi quá đà không cần thiết. Cao Thế Dung trên tạp chí Quần Chúng đã cắt nghĩa rằng nếu Duyên Anh “không cho thoát những uẩn ức chất đầy trong đầu óc (ông) bằng những bài báo ngổ ngáo, cay độc, (ông) sẽ không thanh thản mà viết những trang sách hiền lành lý tưởng” (14). Duyên Anh đã tuyên bố : “Tôi đập phá và tôi xây dựng một xã hội tốt đẹp. Cho nên, song song với những bài báo trào lộng là những cuốn sách viết về tuổi thơ hay về tình người. (…) ngôn ngữ phóng sự nhảm nhí, pô tanh đểu cáng hiếm có trong những cuốn sách lý tưởng của tôi…” (4).

Dâng văn chương cho tuổi thơ và quá khứ và không nhất thiết làm văn chương để chống cộng, Duyên Anh đã chọn cái nghiệp chống cộng và đã gánh chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc đời kể cả bị đả thương đến tật nguyền. Những xã hội và tập đoàn nào còn duy trì bất công và bạo động sẽ dễ kết án những người như Duyên Anh, những người đi khêu động những cấm kỵ. Truyện của Duyên Anh dù chỉ là tiểu thuyết đã bị kiểm duyệt miền Nam cắt bỏ (Bò Sữa Gậm Cỏ Cháy bị kiểm duyệt ‘ngâm’ không cấp giấy phép, sau lại cho nhưng cắt 32 trang) và ông đã là một trong số những tên ‘biệt kích văn hóa tư tưởng’ nguy hiểm cho chế độ đối nghịch chế độ thứ nhất. Nghèo, tự lập tự vươn, muốn truyền lại kinh nghiệm, muốn nói với giới trẻ, nhưng cái gốc người đời nghĩ là không sang cả không quý phái và không cả bằng cấp của ông đã khiến ông bị hất hủi. Nhà văn của tuổi thơ cuối đời tật nguyền buồn khổ đã trở lại đạo Thiên Chúa, tìm nước Trời nơi trẻ nhỏ dễ vào vì đứa nhỏ đã chấp nhận nước Trời, nói như người có đức tin. Một niềm tin mà Duyên Anh đã không có khi đang thành công lớn (5).

Có thể nói ngoài vài cuốn tiểu thuyết về du đãng và trẻ bụi đời, toàn bộ tác phẩm đã xuất bản trước 1975 của Duyên Anh là chính cuộc đời và con người Duyên Anh. Những kỷ niệm, tình tiết, không gian và nhân vật đã được lập lại ở nhiều tác phẩm. Nói như tác giả, ông “bị ám ảnh bởi dĩ vãng, kỷ niệm và vùng trời quê hương nhỏ bé của (ông)” (4). Duyên Anh đã nhìn nhận đó là một nhược điểm vì ông “chưa đủ tuổi để đi xa, để thoát ly khỏi kỷ niệm, dĩ vãng và vùng trời thân thuộc của mình” (4). Nếu tuổi thơ là dĩ vãng, nếu quê hương xa xôi là kỷ niệm đã làm nền cho tiểu thuyết của Duyên Anh trước 1975 thì sau khi ra được nước ngoài tị nạn, sau 6 năm tù và học tập, sau những chiến dịch xóa bỏ tác phẩm ông hoặc kết án ông, tuổi trẻ đã trở thành ý thức chính trị làm nền cho tiểu thuyết của ông xuất bản ở hải ngoại. Duyên Anh sẽ đề cao tuổi trẻ, một tuổi trẻ có ý thức, có lý tưởng, như 28 người trẻ trong hầm đá trại Đầm Đùn, như người trẻ hào kiệt Trần Văn Bá. Chúng tôi tin ông đã từ giã cõi đời với niềm hy vọng ở những người trẻ tuổi, ở một ngày mai nếu có! ”

(Bài viết trích đây là một chương sách của tôi, Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX , Đại Nam xuất bản 2004)

HV: Nếu là một lời khuyên cho các bạn trẻ say mê những tác phẩm Duyên Anh, anh sẽ khuyên gì ?

NVK: Thứ nhất : đọc, thưởng thức lại những tác phẩm của Duyên Anh viết về hai tuổi trẻ (hồn nhiên và bụi đời). Thứ hai : nghiên cứu, tìm hiểu những kinh nghiệm, thông điệp, nhắn nhủ của Duyên Anh từ các tác phẩm đó. Thứ ba : sống như con người thật của Duyên Anh đã từng sống, đó là sống cho tình yêu, với tình yêu, ngay cả trong thế-giới bạo lực và lúc nào cũng tìm cho được hạt ngọc quí trong mỗi tâm hồn con người !

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sat Sep 24, 2022 6:29 pm

Đồi FANTA

Posted by hoanghaithuy

Tháng Tư 1984 trong lần bị tù thứ hai của tôi, tôi từ sà-lim – ngôn ngữ Tù Ðầy Bắc Cộng gọi là “Phòng biệt giam” – sang Phòng Giam Chung Số 6 Khu C Một, Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu. Vào Phòng 6, tôi được xếp nằm cạnh một người tù trẻ. Hỏi, tôi được biết chú là một ông sư Chùa Già Lam, Phú Nhuận, chú bị bắt vì tôi phản động, nôm na là “tội âm mưu cho Bàn Thờ Bác Hồ xuống Cống.”

Bản Pháp Văn ÐỒI FANTA

Chú trẻ hơn tôi khoảng 10 tuổi. Năm ấy chú trạc Ba Bó Lẻ Năm Que, chú người Thừa Thiên, nói giọng khá nặng. Nhiều lần tôi nói với chú:

“Khổ thì nói là Khổ. Cứ Khộ Khộ là cái gì?”

Chú gọi tôi là bác. Tôi  kể chú nghe:

“Chú biết những chuyện này không? Các thầy Tuệ Sĩ, Trí Siêu, cô Trí Hải bị bắt. Bẩy ngày sau ngày ba vị ấy bị bắt, Hoà Thượng Thích Trí Thủ viên tịch.”

Tên vị sư trẻ là Thích Tâm Lạc. Tôi kể chú nghe một lô sự việc mới xẩy ra trong chiến dịch bọn Bắc Cộng triệt hạ Phật Giáo miền Nam Tháng Ba, Tháng Tư năm 1984. Chú nằm trong tù đã hai năm, làm sao chú biết những chuyện ấy. Tổ chức chống Cộng trong có chú bị bọn Công An Thành Hồ phá năm 1982, chú đã nằm ở Trung Tâm Thẩm Vấn này trọn năm 1982, năm 1983 chú bị đưa sang Nhà Tù Chí Hòa, năm nay 1984 chú bị đưa từ Nhà Tù Chí Hoà về đây chịu thẩn vấn thêm, vì ba vị Tu sĩ Trí Siêu, Tuệ Sỹ, Trí Hải, những người bị bọn Công An Thành Hồ coi là ba nhân vật lãnh đạo Tổ Chức Già Lam, mới bị bắt. Chú hỏi tôi:

“Bác không phải là Phật tử, sao bác biết những chuyện này?”

Tôi trả lời:

“Tôi quen với ông Cao Hữu Ðính. Ông ấy kể cho tôi nghe.”

Ông Cao Hữu Ðính nguyên là Tổng Thư Ký Ủy Ban Liên Tôn năm 1963. Nhờ anh Hiếu Chân Nguyễn Hoat, năm 1980 tôi đươc quen ông Cao Hữu Ðính. Ông Ðính biết nhiều chuyện về đời Tu, và đời Tư, nhiều vị Tu Sĩ Miền Trung. Những chuyện ông Ðính kể 10 phần, tôi chỉ nhớ được 2, 3 để kể lại với chú Thích Tâm Lạc. Ông Cao Hữu Ðính đã qua đời ở Sài Gòn khoảng năm 1990.

Nằm cạnh chú Thích Tâm Lạc, tôi ăn chung với chú. Nói là ăn chung, thực ra tôi ăn chiã đồ chay của chú, chú ăn chay, chú không thể ăn thịt kho, thịt chà bông của tôi mỗi khi tôi được nhận thực phẩm vợ con tôi gửi vào. Một ông sư Già Lam gửi đồ nuôi chú. Chú không có gì nhiều nhưng chú có một số thức ăn chay khô, chú có một số thuốc hút Gò Vấp, chú sẵn sàng chia xẻ những thứ ấy với tôi. Chú đặt bát lấy cơm canh cho tôi, chú rửa bát muỗng cho tôi, chú xé những cọng rau muống ra từng sợi nhỏ, trộn chanh, muối mè làm nộm, Trong tù ăn thiếu rau, kể cả món rau muống già cho heo ăn heo cũng chê cũng không có nhiều. Chú làm món nộm Vỏ Chuối. Phải là vỏ chuối sứ mới làm nộm ăn được, vỏ chuối tiêu đắng, chát không ăn được. Vỏ chuối treo lên vài ngày, khô queo, lấy xuống tước thành từng sợi, ngâm nước qua đêm, để khô, vắt chanh, nêm muối mè, làm nộm. Nhờ chú, tôi được ăn Nộm Vỏ Chuối mấy lần trong Nhà Tù VC.

Rồi người tù trẻ thú hai  mới ở sà-lim sang đến với tôi. Trần Văn Bẩy là một Thầy Sáu, Bẩy đã học xong nhưng không được bọn VC cho thụ phong linh mục. Bẩy thuộc gia đình Ðạo gốc, Bắc Kỳ Ri Cư. Thầy Sáu Trần Văn Bẩy trạc tuổi Sư Thích Tâm Lạc. Bẩy cùng hai ông Thầy Sáu bạn hầu việc Chuá trong những nhà thờ khu Ngã Ba Ông Tạ. Vì giáo dân đói Lời Chuá, ba ông in roneo một số bài giảng phát cho giáo dân. Ba ông bị bắt về “tội in ấn bất hợp pháp.”

Bẩy cũng gọi tôi là bác. Bẩy kể nhiều người trong gia đình Bẩy rất ái mộ Nhà Văn Duyên Anh. Năm 1981 Duyên Anh đi tù về, viết tác phẩm “Ðồi Fanta.” Ðề phòng bị mất, Duyên Anh nhờ người quen thân đánh máy “Ðồi Fanta” ra nhiều bản. Bẩy giữ việc đánh máy. Một bản “Ðồi Fanta” được Bẩy giữ lại trong nhà. Khi bọn Công An bắt Bẩy vì “tội in ấn bất hợp phàp” đến khám xét nhà Bẩy để tìm thêm tang vật, chúng vớ được quyển  “Ðồi Fanta.”

Bẩy nói trong bản thảo Ðồi Fanta có bức thư Trần Tam Tiệp ở Paris viết cho Duyên Anh. Thư Tiệp có nhắc đến Dương Hùng Cường và tôi.

Trần Văn Bẩy ghé vào ăn chung với tôi và Tâm Lạc. Rồi ông bạn già đàn anh của tôi là ông Vương Văn Bách – ông anh ruột Trung Tá Vương Văn Ðông – từ sà-lim ra, xách giỏ hành lý vào Phòng 6. Anh Bách cũng ghé vào ăn chung với ba chúng tôi. Anh Bách, Bẩy, tôi và Tâm Lạc nằm cạnh nhau.

Những ngày sống trong Tù của tôi êm ả, yên vui được chừng ba, bốn tháng thì chia ly xẩy ra. Mỗi tháng bọn Cai Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu đưa một số tù nhân đã xong thẩm vấn sang Nhà Tù Chí Hoà. Người ra đi trước nhất trong bọn tôi là anh Vương Văn Bách. Tháng sau, Tâm Lạc và Văn Bẩy cùng đi sang Chí Hoà. Tôi ở lại một mình. Buồn và thương thân, tôi ưá nước mắt.

Rồi cũng đến lượt tôi bỏ Số 4 Phan Ðăng Lưu để sang Nhà Tù Chí Hoà. Buổi trưa Tháng Năm 1985, tôi ôm mùng chiếu theo anh em vào sân Nhà Tù Chí Hoà. Tôi đã viết về cảm giác này: đứng trong sân Nhà Tù Chí Hoà, tôi nhìn lên, quanh tôi chỉ có những hàng chấn song sắt và những hàng chấn song sắt. Lúc ấy tôi nghĩ:

“Ðây là Nhà Tù Chí Hoà. Mình đang đứng trong Nhà Tù Chí Hoà. Ngày nào mình ra khỏi đây mình sẽ kiêu hãnh vì mình từng sống trong Nhà Tù Chí Hoà.”

o O o

Dân Tầu có mấy câu diễn tả sự sướng khoái của người ta ở đời:

Cửu hạn phùng cam vũ.
Tha hương ngộ cố tri.
Ðộng phòng hoa chúc dạ.
Kim bảng quải danh thì.

Sang tiếng Việt, đại khái là:

Nắng hạn lâu ngày gặp mưa rào.
Ở quê người gặp người quen.
Lấy vợ, đêm động phòng.
Thi đỗ, tên đề ở bảng vàng.

Người ta viết thêm để cực tả nỗi suớng khoái:

Thập niên cửu hạn phùng cam vũ.
Vạn lý tha hương ngộ cố tri.
Tu sĩ động phòng hoa chúc dạ.
Ðộn nho kim bảng quải danh thì.

Nghiã Việt:

Hạn hán mười năm được trời mưa.
Xa nhà ngàn dặm gặp người quen.
Thầy tu lấy vợ, đêm động phòng.
Học trò dzốt mà thi đỗ.

Tôi – CTHÐ – có nỗi Sướng Khoái:

Nhập khám ngộ cố tri.
Vào tù, gặp người quen.

Anh em Tù từ Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu sang Nhà Tù Chí Hoà buổi trưa hôm ấy bị Cai Tù chia ra cho vào các phòng giam. Tôi xách giỏ vào Phòng 10 Khu ED. Tôi mừng hết lớn khi người tù đón tôi trong Phòng 10 ED là Thầy Trần Văn Bẩy. Bẩy sang đây tháng trước, đi cùng tù xa với Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát. Bẩy và Thát nằm cạnh nhau, ăn chung. Tôi nhập bọn. Rồi có chú tù trẻ vào phòng. Chú này tên là Tới nên được gọi là Lâm Tới. Tới từng là học trò của Thầy Bẩy. Tới ở trong một tổ chức vượt biên. Tới nhập bọn với chúng tôi. Tôi như sống trong một gia đình, tôi có người bao bọc, giúp đỡ mọi mặt. Những ngày tháng tù đầy phơi rốn cứ thế êm đềm qua.

Linh Mục Joseph TRẦN VĂN BẨY, Người Tù 5 năm vì tội “Giữ bản thảo ÐỒI FANTA.”

Cuộc hội tụ nào rồi cũng phải ly tan. Tới ra toà trước. Người ra toà thứ hai trong gia đình tôi là Trần Văn Bẩy. Buổi chiều từ toà án về, Bẩy chỉ được về phòng lấy hành lý rồi bị đưa ngay sang khu FG. Hỏi Bẩy án tù bao nhiêu, Bẩy nói:

“Tù 8 năm.”

Chúng tôi choáng váng: “Tù gì mà nặng thế?” Hỏi hai ông Thầy kia tù bao nhiêu năm? Bẩy nói:

“Mỗi anh tù 3 năm.”

“Hai ông kia can tội in ấn, Bẩy cũng can tội in ấn. Sao hai ông tù 3 năm mà Bẩy lại tù 8 năm?”

Bẩy trả lời:

“Tôi tù thêm 5 năm vì tội giữ bản Ðồi Fanta.”

Chỉ vì  giữ bản thảo tiểu thuyết Ðồi Fanta của Duyên Anh mà bị tù 5 năm. Chuyện xẩy ra ở Sài Gòn năm 1986. Rất ít người biết chuyện này. Tôi chắc cả Duyên Anh cũng không biết – năm 1986 khi Thầy Trần Văn Bẩy vì giữ quyển Ðồi Fanta mà bị bọn Cộng Thành Hồ kết án Tù 5 năm, Duyên Anh còn sống ở Pháp. Năm 1986 Duyên Anh chưa bị thuơng tật.

Năm 1995 tôi đến Hoa Kỳ. Từ Pháp, Duyên Anh gọi phone cho tôi vài lần, mỗi lần nói chuyện vài phút. Chúng tôi hẹn gặp lại nhau, nhưng rồi Duyên Anh qua đời.

Dòng thời gian nhẹ một ánh bay… Những ngày như lá, tháng như mây… Năm 2007 tôi có blog “hoànghaithuy.com.” Một hôm, Blog của tôi có thư:

“Bố Thủy. Con là Tới. Bố phone cho con, số…”

Lâm Tới, anh Con Dzởm Phòng 10 Nhà Tù Chí Hoà của tôi, ra tù, vượt biên sang Mỹ. Chỉ sau vài năm ở Mỹ, Tới  học và trở thành chuyên viên bảo trì Phi Cơ Không Người Lái của Quân Ðội. Tới ở Arizona. Tới và tôi phone cho nhau. Tôi hỏi Tới về Thầy Trần Văn Bẩy, Tới nói:

“Thầy Bẩy đã trở thành linh mục. Ðể con hỏi mấy ông Linh mục Việt con biết ở Mỹ về Thầy Bẩy, có tin con cho Bố biết ngay.”

Thầy Trần Văn Bẩy, Bạn Tù Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, Nhà Tù Chí Hoà 20 năm xưa của tôi nay là Linh Mục. Ông giữ một xứ đạo ở Kontum. Tới cho tôi I-meo, số phone của ông. Tôi phone cho ông. Tôi nghe lại tiếng người tù Trần Văn Bẩy nói, cười như ông nói, cuời trong nhà tù cộng sản năm xưa. Có bao giờ tôi nghĩ Người Tù Trần Văn Bẩy trở thành Linh Mục.

Cảm khái cách gì.

Viết xong bài này, tôi gửi bài đến Linh mục Trần Văn Bẩy, Kontum, Việt Nam, gửi bài đến Chuyên Viên Lâm Tới, Arizona, Hoa Kỳ.

Trước khi trở thành Linh mục, Tu sĩ Trần Văn Bẩy được Giáo hội cho sang Pháp học 2 năm về giáo lý. Năm 2005 Linh mục sang Houston, Texas làm phép hôn phối cho người cháu của ông ở đây.

Qua trường hợp Linh mục Joseph Trần Văn Bẩy, tôi thấy được chuyện Giáo Hội có nhiều cách chống Cộng sản: đào tạo Linh Mục là một trong những cách bảo vệ Ðạo, giữ Lòng Tin của giáo dân là cách chống Cộng thật Ðẹp. Và Hữu hiệu.

Nhà Văn Duyên Anh viết tiểu thuyết Ðồi Fanta ở Sài Gòn năm 1981, năm thứ nhất sau 5 năm ông bị bọn Bắc Cộng bắt tù khổ sai. Tôi thấy không một nhà văn nào tôi quen sáng tác được như Duyên Anh: sáng tác ở Sài Gòn khi vừa đi tù khổ sai về, sáng tác với việc biết mình có thể bị bắt lại bất cứ lúc nào. Vượt biên đi thoát năm 1983, những năm 1987, 1988 là những năm danh tiếng Nhà Văn Duyên Anh nổi nhất ở Âu châu. Ðồi Fanta được dịch ra Pháp văn, được thực hiện thành phim.

Tôi đăng bài viết về tiểu thuyết Ðồi Fanta để Linh mục Trần Văn Bẩy đọc:

ÐỒI FANTA.

Cuốn sách này viết để tặng:

– Hội Bảo Vệ Súc Vật các nước trên thế giới

– Quý vị nuôi Chó và sưu tầm Chó trên thế giới

– Tòa Án Bertrand Russell

– UNICEF

– Các nước viện trợ nhân đạo cho Việt Nam

Tác giả rất trân trọng

Duyên Anh

Thay lời TỰA

Người viết: Oliver Todd.

VIỆT NAM ÐÃ CÓ SOLJHENITSYNE

Cách đây hai năm, qua “Một người Nga ở Sài Gòn”, người ta đã so sánh ông với Vercors. Ngày nay với tác phẩm “Ðồi Fanta” (Belfond xuất bản) Nhà văn Duyên Anh, cân nhắc trên mọi tầm vóc, chẳng mấy chốc sẽ là Soljhenitsyne Việt Nam: xen lẫn giả tưởng và thực tế, ông đã miêu tả trại tập trung Cộng sản Việt Nam qua tình bạn giữa Mai Bím, tên móc túi khéo xoay xở và Nguyễn Hữu Vũ, mười ba tuổi, bị bắt vì cha là sĩ quan “Ngụy”. Ðiều nguy hiểm nhất cho hai em nhỏ: đồi Fanta. Nơi đây là mồ chôn hàng trăm trẻ em chết vì bị quản giáo sát hại, chết vì kiệt lực, vì “lao động tốt”, vì kiết lỵ, sốt rét ngã nước, dịch tả. Ở một nước gió mùa và thiếu hụt đủ thứ, các em không có được một tấm mộ bia. Thay vào đó là các mảnh giấy nhỏ ghi lại họ tên, có đủ hoặc thiếu sót, thường chỉ thu gọn vào tên gọi và ngày chết, được nhét vào vỏ chai nước ngọt Fanta cắm ngược đầu trên nấm mộ.

Ðược mệnh danh là “Nhà văn của thiếu nhi”, Duyên Anh đã cho xuất bản khoảng năm chục tác phẩm gồm tiểu thuyết, biên khảo, thơ. Trước khi Sài Gòn mất năm 1975, Duyên Anh mô tả sự chán chường và nỗi cô đơn của tuổi trẻ Việt Nam. Và ông vẫn đang tiếp tục công trình này! Thời đó ông chỉ trích Hoa Kỳ và đồng thời chống đối Cộng sản. Cộng sản Việt Nam liệt ông vào “một trong mười tên Biệt Kích Văn Nghệ nguy hiểm nhất”. Tác phẩm bị cấm, còn ông bị bắt giam mà không tuyên án với số tù 239D TCT CT XM, ông chỉ được trả tự do năm 1981 nhờ sự can thiệp của Văn Bút và Ân Xá Quốc Tế.

Ngày 30 tháng 4 năm ngoái, Duyên Anh phải trả một giá đắt về sự dấn thân của ông: trong dịp qua thăm California (Hoa Kỳ), ông bị bốn người Việt vây đánh gục. Ông nằm hôn mê nhiều ngày, rồi được đưa trở về Pháp điều trị trong một nhà thương ở Paris. Dần dà Duyên Anh đã lấy lại được sức khỏe. Ai là kẻ hành hung? Cảnh sát Hoa Kỳ không đưa ra được một kết luận nào cả. Rất có thể đó là những người quốc gia cực hữu thiển cận đã gán cho ông tội làm “ăng ten” cho Hà Nội, bất cần biết đến tư tưởng trong các tác phẩm của ông. Người ta cũng không thể loại trừ đó là sự can thiệp trực tiếp hoặc âm mưu của cơ quan tình báo Việt cộng, vì đối với một chính thể đang muốn tạo ra một bộ mặt có vẻ nhân đạo hơn, Duyên Anh với những tiết lộ, quả thật là một nghệ sỹ nguy hiểm.

Oliver Todd

“Le Vietnam a trouvé son Soljhenitsyne”, Paris Match ngày 9/3/1989

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sun Sep 25, 2022 12:39 pm

Duyên Anh

Đắng cay của một người tù 

Đỗ Bình

Nhà văn Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo…

Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Xuất thân trong một gia đình nghèo. Di cư vào Nam năm 1954, ông từng làm đủ nghề : giữ xe đạp, quảng cáo cho gánh xiệc bán thuốc kiểu Sơn Đông mãi võ, kèm trẻ tư gia, theo Đại Việt Duy Dân lên Ban mê thuột làm cách mạng được vài tháng bỏ xuống Long Xuyên dạy học ở các trường bán công Hòa Hảo được một thời gian lại về Mỹ Tho mở lớp trường dạy đàn guitare tại gia, rồi lại bỏ trở về Sài Gòn, ở đây ông được nhà văn Nguyễn Mạnh Côn thương mến nâng đỡ hướng dẫn vào con đường văn chương, tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý đã nổi tiếng, tiếp theo là những tác phẩm Thằng Côn,Thằng Vũ, Con Thúy được độc gỉa yêu thích, nhất là đối với những độc giả di cư, văn của ông rất lãng mạn đầy hoài niệm về thời kỳ ấu thơ tại quê hương miền Bắc. Tên tuổi của Duyên Anh sáng chói trong lòng giới mộ điệu và từ đó sự nghiệp văn chương của ông thăng tiến. Ngoài nghề viết văn, ông còn làm ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc...Những tác phẩm của Duyên Anh trước năm 1975 thường mang tính hiện thực xã hội diễn tả những mảnh đời sống trong một góc khuất ở những con hẻm, những ngõ cùng nơi đô thị. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau biến cố 30 tháng 4.1975, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Mai Thảo, Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan, Nhất Hạnh, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn bị nêu danh là "Những Tên Biệt Kích của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa - Tư Tưởng" và tác phẩm bị cấm lưu hành.Trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam tháng 4.1976 của nhà cầm quyền CS ban hành, Duyên Anh cùng chung số phận với các văn nghệ sĩ khác đều bị bắt vào tù. Ông được ra tù tháng 11 năm 1981, sau đó ông vượt biên. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại mang tính phê phán chế độ độc tài Cộng sản VN, sách ông được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn Thời gian này, ông còn làm thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp, để lại hơn 100 tác phẩm.

Một chiều hè năm 1984 có lần giáo sư Nguyễn Ngọc Chân một người rất uyên bác, đi du học Phápduyen anh từ thập niên 60 học về kinh tế, rất am tường về khoa học lịch sử thế giới và thuộc sử Việt Nam. Vì qúy văn chương nên vợ chồng ông bà đã mời chúng tôi dự bữa tiệc thân mật tại tư gia gồm có: Anh chị nhà văn Duyên Anh, giáo sư Bạch Thái Hà và tôi là những khách đặc biệt vì bị tù CS, vừa thoát khỏi chốn đọa đày ra bến bờ tự do. Chị Duyên Anh Nguyễn Ngọc Phương là bạn cũ cùng quê với gia chủ; còn lại đều là những người bạn cũ thời du học trước năm 75. Đây là những người thành đạt trong xã hội Pháp, may mắn chưa thấy bom đạn trong chiến tranh và sự nghèo đói của xã hội chủ nghĩa.

Phòng khách nồng hương rượu, khói thuốc và rộn rã tiếng cười nói, làm tăng sự ấm cúng bữa tiệc thân mật. Chất rượu mạnh đã thấm làm cuộc nói chuyện thêm sôi nổi, họ tranh luận từ đề tài Việt Nam đến thời sự nước Pháp, rồi chuyển qua đề tài văn chương Pháp. Nhà văn Duyên Anh giữ thái độ im lặng, khuôn mặt toát ra nét lạnh lùng thâm trầm thoáng chút «thiền», sự im lặng đó ẩn chứa cao ngạo làm như không thèm nghe, tôi hiểu trong con người đó đầy rẫy tự ti và tự tôn nhưng phần tự tôn nhiều hơn. Anh giữ im lặng không phải vì ngại trước những kiến thức uyên bác của những nhà khoa bảng; mà vì cho rằng những người này chỉ biết trong sách vở thiếu sự từng trải cuộc đời. Khi câu chuyện chuyển sang đề tài xã hội nước Pháp, nhân dịp đó anh Bạch Thái Hà hiện đang làm việc trong ngành xã hội đã đề nghị muốn giúp anh Duyên Anh làm hồ sơ bảo hiểm an sinh xã hội để phòng khi đau ốm mà bất cứ người nào sinh sống trên xứ Pháp hợp pháp đều được hưởng, đó là quyền lợi mà luật pháp quy định. Khi nghe nói anh Duyên Anh tỏ thái độ bực bội đứng lên phản đối và nói là :«Một người đang khỏe mạnh không cần bảo hiểm!» Mọi người nghe đều ngỡ ngàng, nhưng ít ai biết anh Duyên Anh rất tin dị đoan, anh sợ nói đến bệnh tật khi đang khỏe mạnh như thế là trù ẻo. Vì qúy tài nhà văn Duyên Anh nên anh Bạch Thái Hà không buồn khi lòng tốt của mình bị hiểu sai. Ngày trước anh là cựu giáo sư trường đại học chiến tranh chính trị và một số trường trung học ở Đà Lạt Sài Gòn trước năm 1975, và cũng là là một cựu sĩ quan ngành chiến tranh chính trị VNCH, một cựu tù nhân chính trị CS. Qua được Pháp anh dấn thân vào con đường văn hóa và phụng sự xã hội giúp rất nhiều việc hữu ích cho cộng đồng. Anh là người sáng lập ra thư viện Diên Hồng ở Paris và làm đại diện cho tờ báo văn học nghệ thuật Làng Văn ở Pháp. Anh rất được người đồng hương qúy mến, anh mất ngày 23.04.2005. Nhà văn Duyên Anh vẫn còn đứng muốn nói thêm, thấy vậy gia chủ vội chuyển sang đề tài khác anh mới ngồi xuống.
Bữa tiệc kéo dài gần 3 giờ sáng, những người khách lần lượt ra về chỉ còn lại vợ chồng anh Duyên Anh và tôi. Anh Duyên Anh muốn tôi ở lại tiếp tục nói chuyện thơ văn, âm nhạc, và nghe anh tán chuyện đời. Mọi người đều đi ngủ chỉ còn hai chúng tôi với những dòng tâm sự cho đến sáng, anh Duyên Anh nói về những chuyện xa xưa và nói những chuyện nổi trên báo chí hải ngoại hiên nay, anh nói anh rất ghét những lố lăng của một số người khoe khoang và những trò bịp đời, những tổ chức đấu tranh cuội nên phê phán. Đêm gần sáng, giọng nói của anh càng nhẹ nhàng kém sôi nổi. Ký ức tuổi thơ trên đất Bắc và những năm đầu mới di cư vào Nam luôn ẩn trong tiềm thức anh cái thuở mà tuổi còn quá trẻ một mình bơ vơ ở đất Sài Gòn phải tự lập thân sống bằng nhiều nghề, phải lóc lách né tránh kẻ mạnh để tồn tại trong việc mưu sinh và phải cố gắng học hỏi trau dồi kiến thức để tiến thân, do đó anh phải cứng rắn với bản thân để vượt qua những khó khăn. Vốn đã thông minh, trời lại không phụ lòng người, may mắn đã đến với anh gặp được những người tốt sẵn lòng thương yêu giúp đõ anh trong đó có người vợ hiền gia đình giàu có, những người bạn văn bậc thày sẵn lòng chỉ bảo, cộng thêm ý chí và nghị lực của chính anh đã giúp anh cơ hội vươn lên. Sự nổi tiếng trong văn chương quá nhanh, đời sống sung túc dư giả, tiền bạc rủng rỉnh khiến anh tự mãn trở thành ngạo mạn ngông cuồng, xem thường kẻ khác thể hiện qua những bài viết có chất cay nghiệt! Nhìn nét mặt mỏi mệt thoáng chút buồn bã của một người có thời gây sóng gío trên báo chí năm xưa ở miền Nam, và bị Hà Nội cầm tù vì xếp loại cùng với những người khác là Những Tên Biệt Kích Văn Nghệ Cầm Bút một loại "cực kỳ nguy hiểm chống phá chế độ". Tôi chợt thở dài như gợi chứa niềm thương cảm, tôi vẫn thích những tác phẩm của anh viết về tuổi học trò như tác phẩm Phượng Vỹ về những khoảng đời hồn nhiên trong sáng. Chính những giây phút này thể hiện trong anh nét thật hiền hòa như anh vừa bước ra khỏi tháp ngà tiểu thuyết do anh dựng và sống thật với mình, lớp vỏ bọc kiêu kỳ để tạo nét riêng với đời được rũ bỏ giống những nhân vật giang hồ trong tiểu thuyết của anh giã từ dao búa.
Trong quán Đào Viên ở khu Á Châu Paris 13 vào năm 1985, chúng tôi nhà văn Duyên Anh, nhà báo Đạo Cù Trần Tam Tiệp, nhà báo Phạm Hữu và tôi. Anh Phạm Hữu và tôi uống café, còn anh Duyên Anh và anh Đạo Cù uống rượu đỏ.
Nhà báo Đạo Cù Trần Tam Tiệp là cựu Trung Tá Không Quân VNCH, khối chiến tranh chính trị, từng tu nghiệp sĩ quan phi hành tại Pháp. Trước 1975 ông là một trong những chủ biên tập san Lý Tưởng của Không Quân và là cây viết quen thuộc trong làng báo Miền Nam. Sau Tháng Tư 1975, nhà báo Đạo Cù cùng với một số nhà văn định cư tại Pháp như Minh Đức Hoài Trinh, Nguyên Sa Trần Bích Lan, Trần Thanh Hiệp, Tô Vũ... thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, và được Văn Bút Quốc Tế chính thức nhìn nhận đến nay. Ông kêu gọi quốc tế tranh đấu bảo vệ các nhà văn miền Nam bị cộng sản bắt giam không xét xử. Chính nhờ sự vận động bền bỉ của ông, tổ chức "The International PEN Writers in Prison Committee (WiPC) đã dành cho các nhà văn, nhà báo Việt Nam bị CS cầm tù nhiều trợ giúp ý nghĩa hoặc can thiệp bảo trợ. Đạo Cù Trần Tam Tiệp bản tính hiền hòa, hay cười giọng nói từ tốn nhưng ít nói. Từ sau năm 1975 ngòi bút của anh chuyên về mặt đấu tranh, anh đặt nặng phần vận động quốc tế tranh đấu đòi tự do cho các văn nghệ sĩ bị CS cầm tù ở quê nhà, và kêu gọi bằng hữu giang tay giúp đỡ những người bạn văn đang khốn khó còn kẹt lại VN.

Về phần Duyên Anh và Phạm Hữu là hai con người đặc biệt, đa tài cũng lắm tật, ngòi bút của họ sắc như gươm đao.
Từ ngày đến Pháp nhà văn Duyên Anh chưa xử dụng đao bút mà chuyên tâm vào viết truyện, anh viết rất khỏe, văn chương vẫn mượt mà nhưng là lối hiện thực phê phán. Anh đang viết gần xong cuốn: Một Người Mang Tên Trần Văn Bá, một giảng sư đại học, cựu chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên VN Paris dám từ bỏ vinh hoa phú qúy để về nước làm cách mạng giải phóng quê hương thoát khỏi ách Cộng Sản nhưng bị thất bại, đã bị bắt và bị nhà cầm quyền Hà Nội tử hình!

Riêng nhà báo, nhà văn Phạm Hữu tên thật là Nguyễn Hữu Ích cựu giáo sư triết của các trường trung học danh tiếng Sài Gòn năm xưa. Qua Pháp tị nạn, anh nghèo vì mê làm báo, anh đi làm thêm đủ nghề để lấy tiền nuôi báo, yêu tự do, trung thành với lý tưởng, tận tụy với văn chương chữ nghĩa, cho đến khi nhắm mắt. Anh muốn dùng ngòi bút để cảnh tỉnh những kẻ hai lòng ngả nghiêng quốc cộng. Cái ngông của Phạm Hữu nặng hơn Duyên Anh, anh bất cần đời hơn Duyên Anh, anh thà để bụng đói nhất định không thèm ăn những cao lương mà một số người vì ngán ngòi bút của anh chiêu đãi. Anh ăn nói sống sượng hơn, bốp chát thẳng vào mặt những người mà anh cho là «rởm đời» hay khoe khoang, anh nặng tay với đám con buôn chính trị, bọn đấu tranh bịp! Nhưng lại rất khiêm cung, lễ độ với những người tử tế.

Nhà báo Phạm Hữu bảo với tôi: «Ông Đạo Cù bây giờ tâm trí chỉ nghĩ đến cách giúp đỡ các anh em, chiến hữu trong nước mà chẳng quan tâm những việc nhố nhăng ở đây! Còn Ông Duyên Anh định ăn no ngủ kỹ sao vẫn chưa lên tiếng nên lũ chuột mới lộng hành ?!». Nhà báo Đạo Cù chỉ cười nhưng không nói, còn nhà văn Duyên Anh cười hăng hắc nói:«Ông lại tháu cáy rồi! Làm sao ông biết những điều tôi đang làm, đang viết?». Nhà văn Duyên Anh nói tiếp: «Tôi mời các ông ra để uống rượu nghe tôi đọc thơ », nói xong anh cầm ly rượu uống cạn, rồi khẽ ngâm bài thơ của mình, nhìn anh thấp thoáng hình ảnh những thi sĩ thời xưa trong sách cổ. Anh tặng chúng tôi tập "thơ Tù" mới in, tập thơ trình bày đẹp. Anh Phạm Hữu hỏi Duyên Anh:«Ông có cần tôi giới thiệu trên báo không ?» Duyên Anh trả lời : «Không, thơ tôi chỉ dành tặng cho những người tôi qúy».

Trong lúc các anh Duyên Anh, Đạo Cù và Phạm Hữu nói chuyện, tôi mở tập thơ ra đọc vài bài và cảm thấy bùi ngùi, ýduyen anh thơ sâu sắc, tôi chẳng hỏi anh chuyện tù mà miên man về nét đẹp của thi ca chứa đầy nước mắt và thấy mình qua những dòng cảm xúc mà anh đã viết trong lời dẫn nhập mở đầu trong tập Thơ Tù, nhà văn Duyên anh viết:«….Tôi làm thơ trong tù bằng óc của tôi. Tôi dựa lưng vào tường bê tông. Tôi bám chấn song sắt to hơn cánh tay tôi. Chấn song sắt của khám Chí Hòa nghĩ thơ. Tôi nhắm mắt làm thơ. Tôi mở mắt sửa thơ.Tôi nằm gối đầu trên tay học thuộc thơ. Quên cũng lắm, sai cũng nhiều. Bằng óc, óc tôi là giấy, là bút, là mực. Trí nhớ tôi là máy ghi âm. Thiếu chính xác vì thiếu sinh tố bồi dưỡng. Người ta cấm tôi dùng tay để viết. Tôi dùng tay để gãi ghẻ. Vừa gãi ghẻ vừa làm thơ. Cần gì phải giấy bút. Cần gì phải cảm hứng. Nỗi ngứa đã là cảm hứng tuyệt vời. Tôi làm thơ và tôi gãi ghẻ. Bởi vì trong thống khổ và cô đơn, tôi thèm thơ…..Thơ của tôi chưa diễn tả nổi «cái lý tưởng và bổn phận» mà tôi đòi hỏi ở thi sĩ. Nhưng ít ra nó đã là bước đầu của người viết văn ồn ào, huyênh hoang ngày xưa đã lớn lên từ đáy hầm phân khổ sai cực hình để biết hững hờ với thế sự hôm nay…»

Ngoại trừ những bạn văn nghệ rủ đi uống café, uống rượu đỏ, thường thì anh Duyên Anh hay đi với chị nhà. Có lần nhạc sĩ Phạm Duy từ Mỹ qua Paris, anh gọi tôi cùng anh Mai Trung Ngọc chủ nhà sách Nam Á ra khu Latin uống café nghe Phạm Duy tán chuyện đời. Nhạc sĩ Phạm Duy và nhà văn Duyên Anh rất hợp khẩu, hai người kể những câu chuyện cười vỡ bụng. Ở những lần gặp khác tôi được anh Duyên Anh tặng băng nhạc Ru Đời Phù Ảo, đây là những ca khúc hay giai điệu nhẹ nhàng, lãng mạn, ca từ còn ẩn chứa nhũng lời than về thiên đường xã hội chủ nghĩa và đất nước tạm dung. Băng nhạc gồm 12 ca khúc do anh viết và hai bài thơ được các bạn phổ nhạc. Vũ Trung Hiền phổ bài thơ Sài Gòn Ra Đường, Phạm Duy phổ Có Bao Giờ Em Hỏi được đổi tựa từ bài thơ Bây Giờ Em Ơi. Ca từ «Em» ở trong bài thơ này không phải là bóng hồng ngoài đời, mà là ẩn dụ «chính khách hết thời». Đoạn cuối bài thơ:

« Em, bao giờ em khóc
Ngơ ngác vì chiêm bao
Chưa kịp mê tam cúc
Xuân hồng đã trôi mau
Chưa kịp hôn môi tết
Tháng giêng son phấn sầu
Bây giờ em mới biết
Em đã chết từ lâu…»
(Paris 1984)

Câu nhạc cuối da diết «Em đã chết từ lâu» được lập lại nghe mà xót xa! Mặc dù có một thời Duyên Anh dạy nhạc nhưng chỉ là dạy lý thuyết căn bản, và lớp căn bản Tây ban cầm. Muốn viết được nhạc phải học thêm về sáng tác. Trong một bữa họp mặt vài người bạn văn nghệ, rượu đã thấm môi nhạc sĩ Lê Trạch Lựu tác giả nhạc phẩm tiền chiến Em Tôi, cười đùa nói :«Duyên Anh chỉ có tài về văn chương, biết đàn hát chứ đâu biết sáng tác nhạc!». Câu nói đùa này làm anh tự ái, anh tìm mua một số sách, nhạc bày bán ở nhà sách Nam Á mang về nghiên cứu cách viết trên các bản nhạc. Sau khi sáng tác được một số bài anh có hỏi qua nhạc sĩ Lam Phương, nhạc sĩ Lam Phương khen và nói thêm về nghệ thuật sáng tác nhạc. Chất nhạc đã nằm sẵn trong máu của Duyên Anh ngay từ thuở nhỏ, anh lại có căn bản vững vàng về nhạc lý và có một thời dạy đàn guitare thuở còn trẻ. Lòng tự ái đã giúp anh quyết tâm, nó bùng cháy thúc đẩy nguồn nhạc trong anh dâng trào nên sáng tác rất nhiều. Trong số trăm ca khúc, có rất nhiều ca khúc mang chất bán cổ điển thính phòng điển hình là ca khúc Giọt Nước Mắt Quê Hương. 12 ca khúc tuyển âm hưởng bán cổ điển trong cuốn băng mang tựa đề Còn Thoáng Chiêm Bao đã được thực hiện trước ngày anh bị nạn nhưng chưa phổ biến. Những ca khúc: Rồi Em Ngủ Võng Đong Đưa, Vỗ Về, Phiền Nhung Gấm, Giọt Nước Mắt Theo Anh, Soi Trong Dòng Mắt, Sinh Nhật, Em Về, Hở Em ?, Dặm Dài Xế Trưa, Sầu Cỏ Lá, Còn Thoáng Chiêm Bao, Gọi Cô Đơn Đưa Tôi Về Cuối Lối, Tôi Nghe Mình Đã Hư Hao. Do ca sĩ Quỳnh Dao trình bày, Hòa âm: Bernard Gerard, Vĩ cầm: France Dubois, Hồ cầm: Hubert Warron, Phong cầm: Gilbert Roussel, Lục huyền cầm: Serge Eymard, Dương cầm: Bernard Gerard.

Vào hè năm 1990 nhà văn Duyên Anh nhờ một người bạn mang đến tặng tôi tập hồi ký Trại Tập Trung được viết trước khi anh bị nạn. Tập sách bìa cứng,dày 485 trang do Xuân Thu ở Cali, Hoa Kỳ xuất bản năm 1988. Cầm tập hồi ký tôi vô cùng xúc động vì anh Duyên Anh bây giờ thể chất khác xưa phải ngồi xe lăn, ăn nói khó khăn. Anh phải cố gắng lắm mới tập cầm bút tay trái để viết lại và chữ vẫn đẹp!

Mở trang đầu nhà văn Duyên Anh viết:
«Có kẻ mê giang hồ đến độ thèm được lột da mình bọc ngoài chiếc vali của một lãng tử nào đó, khi mình chết. Để mãi mãi ngày tháng là những chuyến đi. Nếu ông ta tiên tri cuộc đời vẫn còn những tuyến đường Moscou-Goulag Sibérie, Suối Máu-Phước Long, Kà Tum- Bù Gia Mập, Long Giao, Sơn La, Trảng Lớn- Hà Nam Ninh, Gia Lai-Vĩnh Phú, Washington-Ha Noi, Hilton, Nhà Mình- Sở Công An, Đề lao Gia Định, Chí Hòa…, di chúc của ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu ông ta biết cuộc đời sẽ còn những chuyến xe lửa ngừng lại chẳng cần kéo còi, chẳng cần đợi đến ga nhỏ, lãng tử chạy xuống vũng trâu đầm, múc nước uống ừng ực ngang họng súng AK canh chừng, ông ta, chắc chắn sẽ chán chuyện lãng du. Ở thời đại tôi và trên quê hương tôi đã có những chuyến đi đã trùm lấp định nghĩa vô định và thống khổ mà tôi không sợ lộng ngôn bảo rằng đó là những chuyến đi định nghĩa làm người. Rồi sẽ có hồi ký của một tù nhân viết chính xác về chuyến đi Sài gòn-Hà nội được chào mừng bằng những trận mưa máu đá củ đậu, củ khoai... Những kẻ chịu đựng hình phạt của thù hận một cách can đảm và kiên nhẫn, khinh thường hình phạt của thù hận, bước qua nó mà đi mà tồn tại để tặng nhân loại một định nghĩa làm người, nhân loại đã không nhìn thấy hình ảnh tuyệt vời của những kẻ ấy ở những cuốn sách viết về họ, nói về họ…». Tôi bỗng lạnh toát vì chợt nhớ cái đói trong tù mỗi người tù ăn 15 kg một tháng gồm có bắp sắn lát bobo, và một tuần được một chén cơm, một tháng 3 muỗng muối. Muôn đời cái đói vẫn là nỗi sợ hãi của con người, nhà cầm quyền Hà Nội dùng chính sách bao tử để trị dân, dùng cái đói để kiểm soát và sai khiến người tù. Tùy theo nghị lực và sức khỏe của mỗi tù nhân, những ai không chịu nổi cơn đói cái đói sẽ hành hạ, miếng ăn sẽ làm họ trở nên mềm yếu! Trong trại tù Xuyên Mộc chia làm 3 khu: khu A nhốt những sĩ quan quân đội, khu B nhốt tù chính trị, khu C nhốt tù hình sự. Một đội khoảng 25 người, riêng đội hình sự được cài vào khu A và khu B. Nhà văn Duyên Anh ở khu B buồng 8 đội 29 «đội văn nghệ sĩ». Những tin đồn trong trại tập trung anh làm «antenne» khiến cho những người bạn tù ngần ngại!
Năm 1992 dịp tết cộng đồng VN ở Paris tôi gặp anh Châu Văn Lộc, người đã gia nhập Hướng Đạo VN từ năm 1948. Anh đã từng tham dự trận An Lộc và những trận lớn của Tiểu Đoàn 2/43 Sư Đoàn 18, đây là tiểu đoàn tử thủ cuối cùng của trận Long Khánh vào những ngày cuối tháng tư năm 1975. Anh Lộc ở VN mới qua Pháp sau 11 năm bị tù, anh có thời bị tù chung phòng với nhà văn Duyên Anh. Anh Châu Văn Lộc nói:«Hồi mới qua đây tôi có gặp anh Duyên Anh ngồi xe lăn ở nhà thờ giáo xứ Paris, thấy tôi anh ấy vui vẻ mời về nhà chơi, nhưng bận quá tôi hẹn anh ấy khi khác». Anh Lộc còn kể cho tôi hồi ở Xuyên Mộc năm 1979 tại phòng 8 khu B cùng chung với cụ Hồ Hữu Tường và ông Huỳnh Trung Lộc, Duyên Anh và anh Châu Văn Lộc…, vì bản tính kiêu ngạo nên Duyên Anh không nói chuyện với hai cụ. Khi nghe tin đồn Duyên Anh làm ăng ten tôi đã đến tận mặt hỏi Duyên Anh:«Anh đã từng viết Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Người thày giáo không những giảng dạy cho học trò biết những kiến thức văn hóa, mà còn dạy cho họ lòng yêu nước như thế nào. Sao bây giờ anh lại làm như vậy ?»
Duyên Anh trả lời: «Không phải như tin đồn, tôi không có làm như thế đâu anh Lộc ơi!»

Anh Lộc kể tiếp:
«Thời gian sau chúng tôi cùng biên chế sang phòng 5 ở chung một phòng tôi thấy Duyên Anh đi lao động bình thường, sống thầm lặng, ít tiếp xúc với mọi người».
Ở trong tù những khẩu hiệu:«học tập tốt, lao động tốt» sẽ được cứu xét mau chóng cho về đoàn tụ với gia đình là bài học thuộc lòng của tù nhân, đó chỉ là cái bánh vẽ của nhà cầm quyền Hà Nội! Lời mật ngọt đó đã quyến rũ được một số người nhẹ dạ cả tin muốn về sớm nên thường tỏ ra hăng say trong lao động biểu lộ sự tích cực trong «học tập» nhằm lấy điểm với cán bộ trại giam hy vọng được cứu xét. Sự tích cực đó cũng là để khỏa lấp nỗi sợ hãi bị CS trả thù sẽ bị tù lâu hơn.

Con người và tác phẩm của Duyên Anh đã được nhiều người viết, về những cái hay cái đẹp trong tác phẩm, và cả những điều không tốt gây xôn xao dư luận.

Sau ngày nhà văn Duyên Anh gặp nạn vài năm, anh lại tặng tôi thi phẩm mới là: Em Tôi Sài Gòn Và Paris, tủ sách Người Dân ở Cali xuất bản. Trang viết về thi sĩ: «… Nói thật, thơ mà đề giá bán là hết hay rồi. Thơ óng ả mấy, kênh kiệu mấy, kiêu sa mấy vẫn hết. Khi thơ dính vào nợ áo cơm, nó bị trả đắt hơn cả hình hài của thi sĩ»!

Bài Lưu Đày
(tặng Kiều Vĩnh Phúc, bạn tôi)
«Ta đến đây đành ở lại đâ
Cuối đời thấm thía kiếp lưu đày
Nghẹn ngào sách vở cùng trang mục
Chữ nghĩa vèo bay như lá bay
Những tưởng tài năng vần thế cuộc
Nào ngờ tai họa giáng kê vai
Đường người chó sói nhe răng nhọn
Nghe buốt đau thương cả đế giày
Vàng thau lẫn lộn phiền than lửa
Ngọc đá ganh đua rộn dũa mài…»

Vào tháng 9 năm 1998 nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh, nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương và một số thi hữu ở Sacramento đã tổ chức đại hội Các Nhà Thơ Hải Ngoại có mời tôi sang nói chuyện về đề tài Tính Nhạc Trong Thơ. Nhân dịp đó tôi đi thăm các văn hữu ở Cali, trước ngày trở về Paris các văn nghệ sĩ San José đã tổ chức họp mặt thân hữu tiễn tôi: Nhà thơ Hà Thượng Nhân, Nhà thơ Dương Huệ Anh, Nhà thơ Diên Nghị, Nhà thơ Duy Năng, Nhà thơ Song Nhị, Nhà thơ Song Linh, Nhà thơ Nguyên Phương, Nhà thơ Dạ Chi, Nhà thơ Yên Bình, Nhà thơ Hà Ngọc Lân, Nhà thơ Phạm Ngọc, Nhà văn Nhật Thịnh, Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, nhạc sĩ Phạm Đức Huyến, Nhà báo Tô Ngọc, Nữ sĩ Trùng Quang, Nữ sĩ Đinh Việt Liên, nhà văn nữ Khuê Dung, Nhà thơ nữ Huệ Thu, nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh, Nhà thơ nữ Phan Ngọc An, Nhà thơ nữ Sương Mai v.v… Chiều hôm đó mỗi người hiện diện đều đọc thơ văn và kể chuyện. Nói về Chân Thiên Mỹ trong sáng tạo của giới nghệ sĩ, thi sĩ Hà Thượng Nhân đã kể một câu chuyện cho các bạn cùng nghe về cái tài và cái ngông của nhà văn Duyên Anh.

Thi sĩ Hà Thượng Nhân:
«Đã lâu lắm trước năm 75 có một lần Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị tổ chức một cuộc họp báo mời các Chủ Báo, trong đó có một số báo quy tụ những cây viết chuyên đánh phá. Không biết ban tổ chức sắp đặt chỗ thế nào mà xếp nhà văn Duyên Anh ngồi cạnh Trung Tướng Tổng Cục Trưởng Trần Văn Trung. Với bản tính ngông và bướng, bất cần thiên hạ của Duyên Anh làm cho những sĩ quan trong ban tổ chức vừa sợ vừa lo lắng. Ký giả Lô Răng Trung tá Phan Lạc Phúc phải chạy đến tôi cầu viện. Tôi nói: <«Anh và tôi đồng cấp thì nói cũng như nhau!». Ký giả Lô Răng: «Không, anh phải đến thì mới êm được». Khi tôi đến gặp Duyên Anh, tôi nói :«Anh là nhà văn tức là ngưòi sáng tạo những giá trị Chân Thiện Mỹ, như anh biết kẻ cướp hay giang hồ chúng cũng có luật riêng và cũng biết có người trên kẻ dưới. Chúng ta là người cầm bút không thể nào sử sự thua kẻ giang hồ». Nhà văn Duyên Anh vui vẻ đến chỗ ngồi khác nhường lại chỗ cho ông Trần Viết Sơn».

Nghe câu chuyện tôi nhớ lại chuyện mà ký giả Đặng Văn Nhâm đã có lần kể cho tôi nghe những chuyện trong đời làm báo của anh trước năm 1975 ở sài Gòn, anh cũng có những lần chạm trán tóe lửa với nhà văn Duyên Anh, nhưng sau đó cả hai đã hóa giải những bất đồng.

Nhà văn Duyên Anh những năm cuối đời có tuổi, yếu đuối bệnh tật, đi đứng nói năng khó khăn nhưng vẫn không nghĩ cho bản thân mình mà vẫn hăng say sáng tác. Anh viết bằng tay trái, sáng tác thêm nhiều tác phẩm cho đời xứng đáng là một nhà văn lớn của Việt Nam.

Vào giữa tháng 11 năm 2016 tôi có hẹn với các bạn ở một nhà hàng ở khu Á Châu là bác sĩ Nguyễn Bá Linh, giáo sư Nguyễn Ngọc Chân và giáo sư Nguyễn Văn Sâm ở Cali qua Paris nghiên cứu thêm về lãnh vực chuyên môn ở Viện Viễn Đông Bác Cổ, đồng thời được chúng tôi mời diễn thuyết đề tài Chữ Nôm do Câu Lạc Bộ văn Hóa VN Paris tổ chức. Tình cờ gặp người con dâu út của nhà văn Duyên Anh, cháu Vân Phương đến chào chúng tôi và mời tôi và giáo sư Nguyễn Ngọc Chân đến nhà. Vào ngày 1 tháng 12 năm 2016 tôi và anh Nguyễn Ngọc Chân được người con út của nhà văn Duyên Anh là cháu Vũ Nguyễn Kim Sơn lái xe đến gare Bourg La Reine đón về nhà ở Robinson ngoại ô Paris. Cháu Vân Phương vợ của Kim Sơn đã làm cơm sẵn chờ chúng tôi đến dùng cơm. Trong câu chuyện với vợ chồng Kim Sơn chúng tôi nói chuyện về nhà văn Duyên Anh và cho hai cháu biết tôi đang viết cuốn Con Đường Văn Nghệ ghi lại những tâm tình về những cuộc gặp gỡ các văn nghệ sĩ từ trước năm 1975 đến nay, trong đó có nhà văn Duyên Anh. Trong câu chuyện chúng tôi tránh những điểm nhạy cảm qua tin đồn. Nhưng thật không ngờ hai cháu Kim Sơn Vân Phương rất thông thoáng, cởi mở, lập lại những câu nói, những tin đồn về Bố một cách tự nhiên, thoải mái. Có lẽ anh chị còn quá trẻ, lại sống ở Pháp đã lâu nên hấp thụ được văn hóa của người Pháp là tôn trọng sự suy nghĩ của người khác. Vũ Nguyễn Kim Sơn người mà nhà văn Duyên Anh kỳ vọng sẽ tiếp nối chí hướng anh làm văn sĩ nên đã đặt bút hiệu là Thiên Mã, nhưng Kim Sơn chán sự tranh đua nên lánh xa chốn xôn xao làm khuấy động tâm hồn. Kim Sơn cho biết đã học được ở bố rất nhiều về tính kiên nhẫn, và cách sống «biết an lạc». Những năm cuối đời nhà văn Duyên Anh sống «rất thiền», lòng không thù hận, anh dành những ngày tháng còn lại cho sáng tác. Anh nói với Kim Sơn: «Bố ra đi không mang theo gì, để lại tất cả những tác phẩm tâm huyết này cho con. Đây là món quà qúy báu nhất của bố». Vợ chồng Vũ Nguyễn Kim Sơn rất trân trọng tặng phẩm đó, nhưng vì qúy mến chúng tôi nên đã đưa vào xem tủ sách gồm những bản thảo truyện ngắn, tiểu thuyết, nhạc phẩm…được anh viết bằng tay trái xếp thành tập ngăn nắp và chưa hề phổ biến. Chúng tôi chỉ nhìn tủ sách mà không mở bản thảo ra xem vì trân trọng người đã khuất.

Tôi qúy nhà văn Duyên Anh ngoài tài năng còn ở một nghị lực phi thường. Bản tính nghệ sĩ trong anh quá mãnh liệt, tâm hồn anh là một khoảng rộng chứa sự bao dung và tha thứ. Anh chọn cho mình một con đường riêng để đi, những điều anh nói phát ra từ con tim mà người đời chưa quen hay không muốn nghe về triết lý sống. Đó là quyền sống và sự tự do, nên anh đã dung nạp cả thiên đường lẫn địa ngục mà trên đời chưa có người nào đặt chân đến!

Đỗ Bình
Paris 05.12.2016

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sun Sep 25, 2022 12:44 pm

khoahocnet.com

Đỗ Trường – DUYÊN ANH–TỪ CẢM XÚC CHO ĐẾN TẬN CÙNG CỦA CON CHỮ

Dường như, chẳng cứ thế hệ chúng tôi, mà cả miền Bắc rất ít người được đọc, và biết đến nhà văn Duyên Anh. Bởi, tuy sinh trưởng ở Thái Bình, nhưng tài năng văn thơ Duyên Anh chỉ được phát tiết từ năm 1960, sau khi ông di cư vào Nam. Sau biến cố 1975, thơ văn cũng như con người ông bị đốt bỏ, vùi dập. Trong cái hỗn tạp đó, rất may cũng có vài ba tác phẩm của ông lọt lưới ra đất Bắc, và được âm thầm chuyền tay nhau đọc. Rồi mãi đến những năm gần đây, hình như người ta mới dám (rón rén) hồi sức cấp cứu cho một vài tác phẩm của ông thoi thóp trở lại. Nhiều độc giả miền Bắc khoái, tìm Duyên Anh để đọc. Khoái đến độ họa sĩ Nguyễn Việt (cùng quê Thái Bình) dứt khoát phải lấy tên Duyên Anh để đặt cho con gái của mình.

Có thể nói, Duyên Anh là một nghệ sĩ đa tài. Lĩnh vực nghệ thuật nào Duyên Anh cũng để lại những dấu ấn thật đâm nét trong lòng mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp người đọc, người nghe. Thật vậy, ở Duyên Anh ta có thể tìm thấy hai con người, hai tính khí đặc trưng: Một Duyên Anh chân chất, giàu cảm xúc của nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ và một Duyên Anh nhà báo sắc sảo đến cay nghiệt.

Nhìn vào Văn học sử Việt đương đại, cùng với Tô Hoài, Võ Phiến, tôi đánh giá cao nội lực sáng tạo của Duyên Anh, qua (trên) bảy chục tác phẩm chính đã xuất bản trước và sau 1975. Viết nhiều, đủ mọi thể loại, làm cho người đọc tưởng chừng, Duyên Anh viết bằng bản năng, cùng cảm xúc của người nghệ sĩ, chứ không tuân thủ theo một thủ pháp nghệ thuật nhất định. Song không hẳn vậy. Cái giản dị đến hồn nhiên và chân thực ấy, đã đưa Duyên Anh đến gần với người đọc, nhất là tầng lớp bình dân, học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, với đặc tính này, truyện của ông có một số nhược điểm, tình tiết, hành động đôi khi bị trùng lặp, hoặc có những cái kết (khuôn mẫu) đã được biết trước, ít gây bất ngờ cho người đọc.

Có thể nói, không chỉ hai mươi năm Văn học miền Nam, mà tiếp nối dòng chảy văn học nơi hải ngoại, Duyên Anh vẫn là một hiện tượng văn học rất đặc biệt. Sự đặc biệt ấy, không hẳn vì vốn sống, nội lực sáng tạo, mà do tư tưởng dân tộc của ông: “Dân tộc Việt Nam, một dân tộc phi Cộng Sản, phi Tư Bản, bị nhiễm cả hai thứ vi trùng chủ nghĩa…“ (Saigon ngày dài nhất). Nhận ra, thân phận bi thương của đất nước, dân tộc như vậy, nên sự phản kháng cường quyền, châm biếm cái ác cứ đầy ăm ắp trên trang văn, và xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Duyên Anh. Khi chiến tranh đến giai đoạn khốc liệt, cái tư tưởng dân tộc đó trong thơ văn, dường như đã quá chật chội, nên buộc Duyên Anh phải rẽ sang ngạch báo chí. Với bút danh Thương Sinh (và hàng chục danh khác) cùng với Chu Tử, Duyên Anh đã chọc thẳng vào cái ung nhọt trong mọi lãnh vực, mọi tầng lớp của xã hội lúc đó. Sự phê phán, diễu cợt sâu cay ấy, đôi khi vỗ mặt, quá đà gây không ít sóng gió, và Duyên Anh buộc phải trả cái giá quá đắt cho tận đến những năm tháng cuối đời, bởi thù hận. Tuy không đọc nhiều về mảng báo chí của Duyên Anh, hay Chu Tử, nhưng kẻ hậu sinh như tôi rất cảm phục ngòi bút, cũng như bản lĩnh, sự kiên cường của hai nhà văn này. Thật ra, dù sống ở chế độ Cộng Hòa, hay Cộng Sản, một nhà văn đích thực luôn chĩa bút về phía cường quyền. Và đối lập với chính quyền là điều quan trọng bậc nhất của người cầm bút. Nó không chỉ nhằm vạch ra những yếu khuyết của chính quyền, thúc đẩy xã hội phát triển hơn, mà còn là thước đo nhân cách của một nhà văn vậy. Và tôi nghĩ, Duyên Anh, hay Chu Tử đã làm được điều đó. Tuy nhiên, ở khuôn khổ bài viết này, chân dung hồn vía Duyên Anh chỉ được soi rọi từ khía cạnh văn học, dưới cái nhìn chủ quan của (cá nhân) người viết mà thôi.

Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, sinh năm 1935 tại Thái Bình. Chiến tranh, đói khát đã phá nát tuổi thơ ông, thế hệ ông. Sự ám ảnh, và nghèo đói theo ông cùng gia đình lưu lạc khắp nơi. Do vậy, con đường học hành của ông bị gián đoạn, không được như ước vọng. Năm 1954, ông di cư vào Nam, và trải qua rất nhiều công việc, song cái nghèo, sự vất vưởng vẫn không chịu buông tha ông. Trong cái tận cùng gian khó ấy, ước mơ trở thành tác giả, người viết văn vẫn cháy bỏng trong ông. Và mãi đến những năm đầu thập nhiên sáu mươi, tài năng, tên tuổi Duyên Anh mới được khẳng định, và người đọc biết đến. Tập truyện Hoa Thiên Lý ra đời năm 1963 như một chiếc thẻ thông hành đưa Duyên Anh đến với làng văn vậy. Trên 50 tác phẩm được in ấn phát hành trước 1975, đã nói lên tài năng, trí tuệ, sức làm việc dẻo dai, phi thường của ông. Biến cố 1975, Duyên Anh bị bắt, với đằng đẵng sáu năm tù cải tạo. Chẳng biết có cải tạo, học tập được gì hay không, mà sau khi mãn khóa (tù), Duyên Anh chuồn ngay, và định cư tại Paris. Năm 1997, ông mất bởi căn bệnh xơ gan.

Cũng như các nhà văn cùng thời, cuộc sống, thơ văn của Duyên Anh được chia cắt theo vận mệnh, nỗi đau của đất nước, và con người. Với tôi, Hoa Thiên Lý, Điệu Ru Nước Mắt. Saigon Ngày Dài Nhất, và Nhìn Lại Những Bến Bờ cùng Nhà Tù, tuy không hẳn là những tác phẩm hay nhất, nhưng nó là những trang văn tiêu biểu về tư tưởng, tài năng bút pháp qua từng giai đoạn sáng tạo, cũng như cuộc sống của Duyên Anh. Có điều đặc biệt, một số tác phẩm như: Đồi FanTa, Một Người Nga Ở Sài Gòn của ông đã được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim.

*Tình yêu- nơi bắt đầu về miền ký ức.

Nếu ta đã đọc Miền Thơ Ấu của Vũ Thư Hiên, thì sự xúc động sẽ được tiếp nối, và nhân lên trước nỗi buồn, thân phận, tình yêu khi đọc Hoa Thiên Lý của Duyên Anh. Có thể nói, Vũ Thư Hiên, và Duyên Anh là hai nhà văn cùng thế hệ, viết về tuổi thơ, về miền quê cho tôi nhiều cảm xúc nhất khi đọc. Có lẽ bởi, cái tình yêu, nơi bắt đầu trở về miền ký ức ấy của hai nhà văn này, không chỉ làm mê mẩn tuổi học trò, mà còn chinh phục đủ mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp người đọc trong xã hội. Ngoài sự hồn nhiên, trong sáng với những cảm xúc chân thực khi viết, ta còn thấy tài năng nắm bắt, miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật của Vũ Thư Hiên, và Duyên Anh, không phải nhà văn nào cũng có được.

Tôi chưa thể tìm đọc hết toàn bộ trên bảy chục tác phẩm, nhưng có thể nói, Con sáo của em tôi là truyện hay, truyền cảm nhất của Duyên Anh. Dù nó nằm trong số truyện viết đầu tay của ông. Đọc truyện này, tôi không chỉ xúc động, và có một sự đồng cảm sâu sắc, mà còn bị ám ảnh suốt mấy ngày liền. Cả thiên truyện như một lời tự sự của nhân vật hay chính của tác giả vậy. Với phép so sánh, cùng hình ảnh ẩn dụ con sáo nhỏ không cha, nhà văn làm bật lên nỗi bất hạnh, đói khát cả vật chất, lẫn tình thương của anh em Hữu và Mai. Bị khinh bỉ, và hất hủi của người đời, hai đứa trẻ chỉ còn biết co mình lại, dành tình yêu, bầu bạn với con sáo nhỏ. Tuy nhiên, cuộc sống nghiệt ngã, buộc Hữu phải giết chim sáo, giết chết niềm vui của mình, của em mình. Đoạn trích lời tự sự dưới đây là sự giằng xé, mâu thuẫn nội tâm, hay một bi kịch làm người đọc không khỏi xót xa, bùi ngùi trước cái bi thương của một kiếp người:

“Lúc này đứng nhìn thiên hạ đón xuân, tôi nghĩ đến em gái tôi, nghĩ đến miếng thịt gà, thịt lợn hay thịt chim khi em tôi tỉnh dậy. Anh em tôi chỉ có mỗi con sáo. Con sáo nuôi bao nhiêu ngày mới biết nói. Chẳng lẽ tôi giết nó? Chẳng lẽ em tôi ăn cơm với muối ngày đầu năm? Năm nay em tôi mười tuổi, mười mùa xuân bay vụt qua, mười mùa xuân tẻ nhạt, buồn thảm chấp nối thành thời thơ ấu của em tôi. Mùa xuân trôi theo kỷ nhiệm, có khi nào níu lại được? Tôi không muốn em tôi lớn lên phải nghẹn ngào nhắc tới một trang chua chát, xiên lệch trong cuộc đời. Vậy thì tôi sẽ giết con sáo…Tôi len lén trở vào xách cái lồng sáo xuống bếp. Trời còn tối, sáo không nhận ra tôi. Nếu nó chết thì nó oán hờn sự nghèo khổ và bàn tay tàn ác nào đó. Vong hồn cha tôi sẽ phù hộ tôi. Giết nó, tôi đau đớn vô ngần nhưng tôi phải thương em tôi hơn. Em tôi phải được ăn thịt sáo nấu su hào ngày mồng một tháng giêng năm mới. Chỉ vì em, tôi quên tất cả.” (Con sáo của em tôi).

Tình yêu, nỗi nhớ nhà, nhớ quê luôn thường trực trong lòng người viễn xứ. Do vậy, ngay từ truyện ngắn đầu: Hoa Thiên Lý, Duyên Anh đã tìm về tuổi thơ, với một nỗi u hoài. Đọc tập truyện Hoa Thiên Lý, có thể thấy, văn thơ ông chín ngay từ những truyện ngắn đầu. Và một điều đặc biệt, mảng truyện này của Duyên Anh mang nặng hơi hướm hồi ký, tự truyện. Đôi lúc, tưởng chừng ông trộn tất tần tật các thể loại vào nhau vậy. Cũng với thủ pháp nghệ thuật này, có thể nói, nhà văn Đỗ Chu ở đất Bắc, hay sau 1975 nhà văn Phạm Tín An Ninh sử dụng rất thành công ở hải ngoại…Với từ ngữ mộc mạc, trong sáng giàu hình ảnh gợi cảm, mẹ, tâm hồn mẹ dưới ngòi bút Duyên Anh hiện lên rất nhẹ nhàng lãng mạn, song cũng rất cô độc. Tình thương và nỗi nhớ ấy, quả thực làm cho người đọc không khỏi bùi ngùi, xúc động. Không dừng lại ở đó, thông qua hình ảnh hoán dụ, nhà văn dường như muốn nâng nỗi đau, sự nhớ thương lên một nấc, rộng mở, và sâu sắc cao cả hơn. Vâng, đó là tự do – một nỗi đau còn (hay) mất của cả miền quê đất Bắc. Với thủ pháp này, cho ta thấy, Duyên Anh có trí tưởng tượng, liên tưởng rất phong phú. Đoạn trích lời tự sự, từ truyện Hoa Thiên Lý dưới đây, sẽ chứng minh rõ điều đó:

“Giàn thiên lý quê nhà giờ đây héo khô tàn tạ. Loài ve sầu không rủ rê mùa hạ sang nữa nên họ hàng nhà bọ ngựa cũng chết hết vì buồn. Ở ngoài ấy người ta ngăn cấm không cho ai buồn, không cho ai nhớ, không cho ai thương nhau thì dễ gì mẹ tôi đã được ngồi duới giàn hoa mà kể chuyện cho em tôi nghe. Thì dễ gì có phút giây mẹ nằm tưởng tượng bão táp ngoài trời thấy con chim nhỏ lạc bầy dạt trôi thảm hại. Tôi buồn, tôi muốn khóc khi nghĩ rằng chiều nào người ta bắt mẹ tôi nhổ hoa lý, phá giàn tre để trồng ngô khoai chẳng hạn. Mẹ tôi sẽ chết khô héo trên mảnh đất xác xơ đầy những oán thù…“

Tôi không dám nói, tất cả những hình ảnh, câu chuyện là hiện thân của tác giả, song ở đó chắc chắn ta tìm được sự chân thực của ngòi bút Duyên Anh. Và Đại Dương Trong Lòng Con Ốc Nhỏ, là một trong những truyện ngắn tiêu biểu như vậy của ông. Hình ảnh người cha nghèo đến độ phải ăn cắp chiếc áo ngoài chợ cho con, bị dày vò đến chết, là tột cùng của sự bi thương, làm cho người đọc phải xót xa, và ám ảnh. Tính chân thực ấy, như một thủ pháp nghệ thuật (một cái ngòi) dẫn đến sự cảm thông cho người đọc vậy. Thật vậy, đoạn văn tuyệt đẹp, đầy ăm ắp hình ảnh so sánh dưới đây, đã làm cho nước mắt tôi rơi ngay trên bàn phím, khi ngồi viết những dòng chữ này:

“Cha tôi nhìn mẹ con tôi. Mắt cha tôi long lanh. Bóng cha tôi gầy gò in hình trên bức tường vôi loang lở. Có ai ngờ cái thân thể gầy gò kia lại bọc nổi tình thương yêu rộng lớn như con ốc nhỏ thu gọn cả đại dương trong lòng mà vẫn câm nín. Câm nín suốt đời…Cha tôi chết, mẹ con tôi nheo nhóc bơ vơ. Mẹ tôi năm tháng ngồi đan nỗi buồn ở bến đò Đồng Đức. Anh em tôi nhìn đám trẻ thành thị rồi vội vàng cúi gầm mặt qua sân nhà ông ngoại, làm rơi mất tuổi thơ.“ (Đại dương trong lòng con ốc nhỏ)

Và không chỉ chiến tranh, mà cả cách mạng cũng giết chết tuổi thơ, bạn bè, thế hệ Duyên Anh. Những vết nứt đầu đời ấy, như nhát dao đâm xuyên qua cuộc sống, tâm hồn nhà văn. Và Khúc Rẽ Cuộc Đời là một truyện ngắn, hay là câu hỏi, lời tự vấn của Vĩnh đã ám ảnh suốt cuộc đời Duyên Anh. Cho nên, cả cuộc đời cầm bút, dường như ông cứ phải đi tìm lời giải đáp, và chống lại cường quyền, chống lại cái ác là vậy:

“Phải chứng kiến lưởi kiếm đâm từ ngực xuyên qua lưng ba Vĩnh. Phải thấy ba Vĩnh dẫy dựa trên vũng máu, Phải thấy me Vĩnh chết ngất trên thây ba. Phải thấy xác chị Hiền trần truồng. Phải thấy mắt chị trợn trừng uất hận mới hiểu cách mạng và chiến tranh. Tại sao những người hiền lành lại phải chết khốn nạn thế nhỉ?“. (Khúc Rẽ Cuộc Đời)

Với tôi, những truyện ngắn, hồi ký của ngày đầu cầm bút này, là giai đoạn quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Duyên Anh, xét về cả nội dung, lẫn hình thức nghệ thuật. Có thể nói, đây là giai đoạn viết hồn nhiên, với những hình ảnh chân thực, sâu sắc, truyền cảm nhất của ông. Chính vì vậy, nó đi sâu và đọng lại trong lòng mọi tầng lớp người đọc. Và nhắc đến Duyên Anh, chắc chắc như một phản xạ tự nhiên: Hoa Thiên Lý tập truyện ngắn, được bật ra từ người đọc.

*Bế tắc cuộc sống, mất niềm tin vào xã hội, và con người:

Sau 1954, nhát dao cắt đôi hình đất nước. Duyên Anh rời bỏ quê hương, theo dòng người di cư, trốn chạy. Tưởng rằng sẽ bình yên ở đất trời phương Nam, nhưng không phải vậy. Chiến tranh, và nỗi cô đơn cùng nghèo đói bủa vây lấy ông. Sự thất vọng ấy, đã làm cho Duyên Anh bất mãn trước một xã hội, mà ông cho rằng, giả dối và bất công. Vì vậy, ngòi bút của ông chọc thẳng vào ung nhọt đó. Sự can đảm ấy của ông luôn không vừa lòng với bất cứ chế độ, đảng phái, đoàn thể nào. Vâng, có thể nói, đây là tư tưởng dẫn đến hành động xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Duyên Anh. Và đoạn văn rất sinh động: “Học chống cộng, để chống đói” có lời thoại mang tính mỉa mai, trào lộng, không chỉ chứng minh tư tưởng, hành động ấy của Duyên Anh, mà ta còn thấy được, cái sân khấu hề chèo của xã hội lúc đó:

“Mẹ ơi, Trần Học chỉ là Trần Văn Thông, thằng cán bộ thông tin, đệ tử ông Quốc Phong, bạn Hà Nội của tôi, từng thuê tôi làm thơ chống cộng ăn cơm ghi sổ. Nó nhìn thấy tôi. Nó khớp. Nó ngó tôi, mỉm cười. Vì nó có quyền, nó xin lỗi toàn thể học viên cho nó ngưng giây lát rồi ngoắc tay gọi tôi ra thật xa khỏi lớp học.

– Mày ngồi như mả ông tiên sư, tao làm ăn gì được, hả?

– Ông đâu biết mày trở thành lý thuyết gia chống cộng!

Nó móc ví xỉa cho tôi hai trăm:

– Cút mẹ mày đi cho ông dạy chống cộng!

Tôi nói:

– Khóa học 10 ngày, 5 bò lận.

Lý thuyết gia Trần Văn Thông, biệt danh chống cộng Trần Học dậm chân, nhăn nhó:

– Mày cút đi chơi, ông giảng bài xong sẽ về gặp mày. Ông cho mày ký tên vào tờ giấy xác nhận mày học đủ 10 ngày, cụ Ngô sẽ trả mày đủ 5 bò. Mày sẽ có bằng chống cộng. Từ chiều nay, ông không muốn nhìn mặt mày nữa. Cứ nằm nhà. Ngày mãn khóa nhớ đến liên hoan đớp hít, lĩnh tiền và bằng cấp.

– Thế thôi à?

– Muốn gì nữa?

– Tao muốn học chống cộng!

Lý thuyết gia chống cộng Trần Học xỉa thêm hai trăm nữa.

– Cấm mày tiết lộ vụ bán thơ.

Tôi phú lỉnh ngay.“ (Trích: Nhìn lại những bến bờ)

Trước một xã hội bất ổn, nạn bè phái, tướng tá khoái đảo chính hơn trận mạc, càng làm cho Duyên Anh chán nản, và khinh bỉ: “Với tôi, dù khát khao đổi mới, dù không ưa thái độ của Tổng giám mục Ngô Đình Thục, không chịu nổi ngôn ngữ của bà Trần Lệ Xuân, dù không chấp nhận sự thao túng của ông Ngô Đình Cẩn, tôi vẫn coi 1-11-1963 là một thoán nghịch đê tiện…“ (Nhìn lại những bến bờ). Và từ đó, ta thấy Duyên Anh xuất hiện trên cả hai diễn đàn báo chí và văn chương. Nếu trên báo chí Duyên Anh đào sâu, hạ nhục các tướng lãnh, những nhân vật cốt yếu… và cường quyền thối nát, thì ở diễn đàn văn chương ông đi tìm, xây dựng, ngợi ca du đãng, giang hồ. Và có thể nói, Điệu Ru Nước Mắt ra lò năm 1965, là một trong những cuốn tiểu thuyết điển hình như vậy của Duyên Anh ở giai đoạn này. Và sau đó, nó được chuyển thể thành kịch bản phim cùng tên do Hãng Phim Liên Ảnh thực hiện.

Từ nhận thức, tư tưởng như vậy, cho nên không chỉ ở Điệu Ru Nước Mắt, mà những tiểu thuyết cùng viết về đề tài này, Duyên Anh đều xây dựng tính cách nhân vật, với những bố cục truyện khá đồng nhất. Do vậy, thành thật mà nói, đọc đến cuốn tiểu thuyết thứ hai, thứ ba… của ông về đề tài này, cảm hứng của tôi cũng vơi dần đi ít nhiều.

Vẫn thông qua nghệ thuật đối thoại, thái độ nhân vật, Duyên Anh cài cắm ý thức tư tưởng của mình về xã hội, và con người vào đó. Tư tưởng, hồn vía ấy của Duyên Anh ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý người đọc, nhất là giới trẻ khi tương lai, và niềm tin đã mất. Thật vậy, đoạn trích lời thoại, như một lời tự sự đắng chát giữa hai tầng lớp trong xã hội (bác sỹ Niệm và gã giang hồ Trần Đại) dưới đây, chứng minh cho ta thấy sự đảo lộn giá trị đạo đức, giá trị con người. Buộc Duyên Anh phải làm sáng tỏ nó, và giải quyết nghịch lý ấy, trong tác phẩm này:

“Bác sĩ Niệm nói chưa dứt, Trần Đại chặn lại :

– Không đi hoang đâu bác sĩ ạ ! Đi tìm tương lai đấy. Gia đình bỏ rơi chúng tôi, xã hội hất hủi chúng tôi, tổ quốc khinh bỉ chúng tôi. Có ai nghĩ cho chúng tôi đâu. Vậy chúng tôi tự nghĩ lấy, tự tạo lấy con đường riêng của chúng tôi. Chúng tôi đi làm du đãng. Bác sĩ chơi với du đãng, bác sĩ sẽ hối hận đấy.

Bác sĩ Niệm đứng lên :

– Tôi không có mặc cảm gì cả, nhưng tôi nhận thấy, nếu du đãng như anh và cậu Hùng cả thì xã hội này đỡ bẩn hơn. Tôi thường nhìn lại cuộc đời mình, dĩ vãng và hiện tại, tôi nói thật, nó dáng “buồn nôn” lắm. Những mẫu người mà cuộc đời đang công kênh lên, đặt vào chiếu tri thức, giá tâm hồn họ bỗng được một phần nhỏ tâm hồn anh, tôi chắc tổ quốc này đỡ tủi nhục nhiều. Khốn nỗi, họ đê hèn hơn cả những người vô học đê hèn, họ sống ích kỹ và rỗng tuếch. Chính tôi, tôi cũng thấy mình rỗng tuếch đáng phỉ nhổ. (Điệu Ru Nước Mắt)

Khác hẳn với những truyện ngắn, bút ký về quê hương thuở ấu thơ, tiểu thuyết ở giai đoạn này Duyên Anh ít đi sâu vào miêu tả diễn biến tâm lý. Nhưng ông dành nhiều trang không chỉ thi vị hóa, mà còn còn (phóng đại) cường điệu hóa (hình ảnh, hành động) nhân vật: “Anh Trần Đại được làm tướng đi đánh nhau với cộng sản, chắc chắn anh ấy thương lính của anh ấy như thương chúng mình, anh ấy lại cừ nữa, cộng sản cứ gọi là hết ngáp…” (Điệu Ru Nước Mắt). Có thể nói, Duyên Anh đề cao nhân cách giới du đãng, giang hồ, (hay nói cách khác mượn họ) để bóc trần bộ mặt thật, giả dối lưu manh của giới chính trị, tầng lớp ăn trên ngồi trốc. Với những hình ảnh so sánh, đoạn trích dưới đây, cho ta thấy rõ điều đó:

“Nó đã làm đủ nghề. “Thổi nghẽo, đi hiu”, gác khách cho “phỉnh cấc” và ma cạo. Nhưng nó anh dũng hơn nhiều thằng khác trong cái xã hội bẩn thỉu này là nó dám nhận nó là ăn cắp xe đạp… Tôi yêu nó. Chúng tôi yêu nó. Không hiểu bác sĩ nghĩ thế nào, chứ theo ý tôi, những thằng đang vỗ ngực nhận mình là chính khách là cách mạng chưa thằng nào có can đảm như Năm Hòa Hưng. Tôi khinh chúng nó bác sĩ ạ!” (Điệu Ru Nước Mắt).

Và trong cái xã hội trắng đen đảo lộn ấy, hình ảnh chính trực của nhà văn Thiên Chương can đảm, dám đi đến tận cùng của công lý, và sự thật, như một ngọn lửa chợt lóe lên giữa đêm đen vậy. Và phải chăng hình ảnh đó, chính là hiện thân của tác giả Duyên Anh? Đây là nhân vật đặc biệt, bất ngờ đã mở ra lối thoát cho xã hội, con người, và gieo niềm tin vào lòng người đọc. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, như (đại ý) Duyên Anh đã nói ở đâu đó, viết để giải tỏa uất ức bấy lâu. Song tôi nghĩ, chưa đủ, ông viết trên hết vì cuộc sống, cơm áo gạo tiền. Do vậy, lối viết của ông róng riết, không còn hồn nhiên, trong sáng như những năm tháng đầu.

*Biến cố 1975, với những năm tháng tù đày.

Tôi đã đọc khá nhiều hồi ký, bút ký về những ngày Saigon hấp hối của các nhà văn, tướng sĩ cả hai miền Nam Bắc. Tuy nhiên, đến lúc này, chưa có cuốn sách nào cho tôi nhiều cảm xúc như: Saigon thất thủ của Komori Yoshihisa, và Saigon ngày dài nhất của Duyên Anh. Nếu Komori Yoshihisa đi sâu vào tìm hiểu, phân tích nguyên nhân Saigon thất thủ, với những nhân vật chóp bu, thượng tầng, thì Duyên Anh đi sâu vào cái không khí đặc đến nghẹt thở, và hình ảnh cuối của người lính, cũng như tâm trạng người Saigon lúc đó. Saigon ngày dài nhất được Duyên Anh viết vào năm 1988 tại Paris. Với độ lùi của thời gian như vậy, dường như đã ủ chín những suy nghĩ, nhận định của Duyên Anh. Thật vậy, bằng kỹ năng quan sát của người làm báo, tư duy liên tưởng viết của một nhà văn, giờ phút hấp hối ấy, Saigon hiện lên rất đau thương, với hình ảnh rất chân thực, sinh động.

Trong cái mớ bòng bong, hỗn loạn ấy, nhà văn vẫn còn nhận ra sự bình tĩnh đến lạ thường của người lính. Trách nhiệm với non sông đất nước, như là một biểu tượng tự nhiên của người lính vậy. Có điều đặc biệt, không chỉ tác phẩm Saigon ngày dài nhất này, mà tác phẩm nào cũng vậy, nếu Duyên Anh đề cao, hãnh diện bởi người lính VNCH, thì bên cạnh đó, kiểu gì cũng là những lời tổng sỉ vả về sự hèn nhát, vô trách nhiệm của tướng lĩnh, và tầng lớp lãnh đạo cao nhất. Cái tư tưởng, tình cảm này xuyên suốt những trang viết của Duyên Anh. Có lẽ, đây cũng là một trong những hạn chế, mang tính cực đoan của ông chăng?

Và nếu hình ảnh bi thảm, chán chường ở người lính thất trận trong Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy cho người đọc nỗi cảm thông, thì vẫn hình ảnh người lính ấy, còn đọng lại ở cây viết của Duyên Anh một sự điềm tĩnh đầy tự tin:

“Người lính xe tăng mở nắp, cầm cái búa lớn nhẩy xuống đường. Chiếc tăng bị trục trặc. Bình tĩnh, người lính giáng những nhát búa. Chắc chắn, anh không nghe tướng Vĩnh Lộc hài tội tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu và kêu gọi tiếp tục chiến đấu. Người lính ấy, biểu tượng rực rỡ và đích thực của quân đội, còn nguyên vẹn danh dự và trách nhiệm. Anh thừa hiểu bọn tướng lãnh đầu sỏ đã chạy trốn hết. Bọn thống trị bù nhìn đã chạy trốn hết. Nhưng là lính, dù thoi thóp một phút chiến đấu, anh vẫn bảo vệ danh dự quân đội, vẫn chứng tỏ trách nhiệm với tổ quốc, dân tộc. Người lính im lặng làm công việc của anh. Hẳn nhiên, anh không hò hét. Nên, anh vẫn còn đây, trước cổng nhà tôi số 225 Bis đường Công Lý, sửa xích xe tăng một cách thản nhiên. Sự thản nhiên của người lính, tôi đã không tìm thấy ở tướng Vĩnh Lộc trên vô tuyến truyền hình.” (Saigon ngày dài nhất)

Và chứng kiến sự tuẫn tiết của người sĩ quan cảnh sát, ngòi bút của Duyên Anh càng sắc bén và sâu cay. Vẫn hình ảnh so sánh đề cao khí tiết của người sĩ quan, và nhằm bóc trần bộ mặt đê hèn (trốn chạy) của các tướng lĩnh, Đô trưởng Saigon. Cùng đó, sự liên tưởng về cái giả dối, hão huyền của con người, hay của chính chúng ta nơi hải ngoại này, đã được Duyên Anh đưa tuốt tuồn tuột lên trang sách của mình. Và một đoạn văn, hay một câu hỏi tu từ dưới đây, Duyên Anh làm cho người đọc uất uất nghèn nghẹn, đắng chát không chỉ nơi cổ họng:

“Trung Tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sàigòn là Tổng Trấn Sàigòn đã đào ngũ… Không có Hoàng Diệu, ở những trạng lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và trên những tiểu thuyết đấu tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự nhận sống hùng mọi hoàn cảnh, người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết tuyệt vời của Trung tá cảnh sát tên Long…Ở những cuộc đấu thầu anh hùng, liệt sĩ quốc gia tại hải ngoại, chưa thấy một nén tâm hương tưởng mộ Trung tá Long. Có lẽ, liệt sĩ đích thật không lãi lớn bằng liệt sĩ giả vờ thế thì thời đại chúng ta đang sống là cái thời đại gì nhỉ?” (Saigon ngày dài nhất)

Từ chỗ tuẫn tiết của Trung tá Long, Duyên Anh băng sang nhà thờ Đức Bà. Nơi vừa xảy ra trận chiến quyết tử của một trung đội nhảy dù. Một trận chiến không hề cân sức. Và Saigon đã không thành Leningrad, nhưng dưới ngòi bút Duyên Anh, tinh thần người lính đi vào bất tử:“…Đánh lấy chết. Chết vinh. Tôi vừa mới khô nước mắt. Trung đội nhẩy dù chết hết. Giặc cũng chết bộn. Xác quân ta và xác giặc đã được mang đi. Chiến trường đã rửa sạch vết máu. Ông ra mà xem, đường còn ướt mèm.” (Saigon ngày dài nhất). Hình ảnh đẫm máu, và nước mắt ấy, có thể là trận chiến cuối ngay trên đường phố Saigon. Nhưng chắc chắn từ đây bắt đầu một trận chiến mới trong lòng Duyên Anh, trong lòng thành phố. Và bên cạnh những người lính đi vào bất tử ấy, Duyên Anh cũng cho người đọc nhận ra, chân dung những người cách mạng mới. Có thể nói, với những biện pháp tu từ như vậy, làm cho văn của Duyên Anh sinh động, đầy ăm ắp những hình ảnh so sánh: ”A, những người này tôi đều biết. Họ ở dưới chợ Xóm Lách. Họ đã là nhân dân tự vệ chọc chó, hái trộm khế nhà tôi và gây phiền nhiễu cho dân lương thiện. Họ đã là những tên sống cù bơ, cù bất ngoài vòng pháp luật. Họ đã là ông thợ may hiền lành, bà chạp phô dễ tính. Họ đeo băng đỏ chờ đợi hoan hô cách mang…” (Saigon ngày dài nhất)

Có mặt ở thời khắc đó, do vậy Duyên Anh có một cái nhìn chân thực, sống động. Tuy nhiên, với nỗi đau cùng tâm trạng ê chề đó: Nhìn lá cờ không sinh khí? Hay hồn vía Duyên Anh cũng rũ rượi như một ngày thiếu nắng, thiếu gió. Đoạn trích sau đây, không chỉ cho ta thấy rõ điều đó, mà còn vạch trần những cái giả dối, lưu manh của lịch sử bấy lâu nay che đậy. Vâng, chẳng có cái xe quái nào ủi sập cái cổng Dinh Độc Lập, như sân khấu hề chèo trình diễn suốt gần nửa thế kỷ qua. Cảm ơn Duyên Anh, một nhân chứng sống: “Chúng tôi đã đến Dinh Độc Lập. Lá cờ Mặt trận giải phóng miền Nam đã thay thế cờ vàng ba sọc đỏ. Nó không phất phới bay theo khí thế giải phóng. Nó rũ rượi trong ngày thiếu nắng, thiếu gió. Chiếc xe tăng thứ nhất theo ngả Thị Nghè, Hồng Thập Tự, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thống Nhất đã vào khuôn viên Dinh Độc Lập ngon lành. Cổng mở rộng sẵn. Không hề bị T-54 ủi sập như báo chí Cộng Sản tường thuật…Cộng Sản vào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.“(Saigon ngày dài nhất).

Sau tháng 4-1975, cùng với quân cán VNCH, các nhà văn đều lần lượt chui vào rọ cả. Không bị lên thớt như Nguyễn Mạnh Côn, Dương Hùng Cường hay Vũ Hoàng Chương…bác nào may mắn còn trở về cũng trầy vi tróc vảy. Tuy nhiên, những năm tháng dày vò, hành hạ về cả thể xác lẫn tinh thần ấy, chưa hẳn đã là điều đáng sợ đối với họ. Mà nỗi lo sợ cho vợ con, gia đình ở một cái xã hội đảo lộn tùng phèo về đạo đức, luật pháp mới là nỗi đắng cay nhất trong lòng văn nhân tù đày. Thật vậy, tác phẩm Nhà Tù, Duyên Anh đã dành nhiều trang văn cảm động, súc tích nhất để nói về nỗi đớn đau này. Có thể nói, Duyên Anh là một trong những nhà văn hàng đầu của Việt Nam viết về tâm lý, nỗi đau, thân phận con người: “Con gái tôi, Vũ Nguyễn Thiên Hương, tức con Ki…giỏi môn văn, được ra Hà Nội thi, đậu cao sẽ sang Moscow, thương bố bị tù, thương anh bị đuổi học đã xin nghỉ học luôn. Con trai út tôi, Vũ Nguyễn Thiên Sơn, tức thằng Đốm, bị cấm đến trường. Vợ tôi bệnh hoạn dài dài, bị lừa gạt vượt biên, bị hăm dọa thủ tiêu nếu không rời căn nhà đường Công Lý. Thư hăm dọa trình công an. Công an lờ tít. Vợ con tôi bỏ nhà…lưu vong. Con chim đại bàng đã không đến ăn khế vườn nhà tôi. Và cổ tích của thằng Đốm là thất học.” (Nhà Tù)

Không như những sĩ quan, người lính cùng cảnh lao tù, cải tạo, mà dường như Duyên Anh ngơ ngác với những “nỗi khổ thật mới”. Không giấy mực, ông vận nỗi thống khổ ấy vào thơ. Những cái chết bất ngờ, rẻ mạt của người tù cải tạo làm cho Duyên Anh giật mình, kinh hãi. Lời thơ cho vợ, hay là lời tuyên án cho những kẻ giết người giấu mặt, ẩn tên này. Tôi đã đọc rất nhiều trang văn xuôi kinh hoàng về những năm tháng cải tạo tù đày sau 1975, song về thơ dường như không được nhiều. Ngoài thơ Tô Thùy Yên, thì quả thực bài “Về nỗi khổ thật mới” Duyên Anh đã làm cho tôi xúc động. Có thể nói, đây là bài thơ hay, với những hình ảnh, sự liên tưởng độc đáo, một cảm giác chờn chờn, rợn rợn, khi đọc: “Lưỡi cưa cùn cưa gỗ cưa cây thật ớn/ Đã cưa xương cưa thịt con người/ Bạn anh thét kinh âm hưởng vút lên trời/ Bạn anh giẫy giụa đất nứt tung cục cựa/…Mắt cài then kín cửa”. Hình ảnh chân thực, nỗi đau tận cùng trời đất ấy, đã đọc nhiều lần, song tôi không đủ can đảm nhắm mắt để tưởng tượng, nên đôi lúc có tính hoài nghi… Vâng! Có lẽ, chỉ có người tù cải tạo mới thấu cảm hết những điều đó mà thôi:

“Báo tin cho em biết

Bạn anh vừa cuốc đất trúng mìn

Mìn nào đó, ôi trái mìn xảo quyệt

Ai cũng được quyền gài và quyền lớn tiếng thanh minh…

Lưỡi cưa cùn cưa gỗ cưa cây thật ớn

Đã cưa xương cưa thịt con người

Bạn anh thét kinh âm hưởng vút lên trời

Bạn anh giẫy giụa đất nứt tung cục cựa

Anh ghì tay bạn anh

Mắt cài then kín cửa

Hồn đi xa khỏi thế giới lầm than

Nỗi đau đóng đinh thập giá có đâu bằng

Bạn anh bị cưa chân bởi thứ cưa cưa gỗ

Nhân loại có nhiều nỗi khổ

Nhưng chưa có nỗi khổ nào giống nỗi khổ bạn anh…” (Về nỗi khổ thật mới)

Nếu ta đã đọc Ở Cuối Hai Con Đường của nhà văn Phạm Tín An Ninh, thì sẽ có sự đồng cảm hơn khi đọc Nhà Tù của Duy Anh. Cả hai nhà nhà văn cùng đi sâu vào khía cạnh tình người. Với cái nhìn chân thực của nhà văn, hơn hết là một người tù: Không phải tất cả những người quản giáo đều tàn nhẫn, và mất hết tình người. Ở họ, nhà văn vẫn tìm thấy sự đồng cảm, sự sẻ chia. Vâng, có lẽ đây là một trong những giá trị chân thực nhất mà tôi đã tìm được ở những tác phẩm này: “Các anh nhà văn, nhà báo, các anh có tội với Đảng chứ không có tội với ai hết. Các anh lao động đầu óc, khác mấy anh tư sản mại bản. Tôi kính trọng các anh với tư cách cá nhân. Tôi là bộ đội, đang là công an tạm thời, chờ chuyển ngành hoặc giải ngũ…” (Nhà Tù)

Không chỉ người quản giáo, mà ở người cán bộ kiểm sát cấp cao, nhà văn may mắn gặp được cái tình người còn sót lại. Thành thật mà nói, đây là lần đầu tôi bắt gặp chi tiết này, trên trang văn của các cựu tù cải tạo. Có thể nói, đây là chi tiết, tư tưởng hành động khá thú vị. Nó không chỉ cho người đọc cảm được sự trung thực, mà còn làm dịu mát đi tác phẩm vốn dĩ đã nóng bỏng, và chua cay này. Hồi ký, bút bút thường mang tính chủ quan, các sự kiện được kể lại, theo thứ tự thời gian tác giả trải qua, chứng kiến. Do vậy, lời văn chậm, khó gây cảm hứng cho người đọc, nhất là giới trẻ. Tuy nhiên, cũng ở thể loại này, Duyên Anh sử dụng nhiều, và rất tinh tế nghệ thuật đối thoại, làm cho lời văn ngắn gọn, sinh động, buộc người đọc phải đi đến tận cùng trang viết. Thật vậy, lời thoại dưới đây, cho chúng ta thấy rõ điều đó:

“Buổi sáng ngày thứ ba, ông ta đưa tôi gói cà-phê:

– Tôi đã qua nhà anh rồi ngại không dám vào. Một cán bộ vào nhà một nhà văn bị tam giữ sẽ xẩy ra nhiều dị nghị cho cả hai. Tôi mua tặng anh hai lạng.

Tôi nói:

– Tôi xin phép gửi lại tiền anh.

Ông ta lắc đầu:

– Anh quên tôi là cán bộ và anh là người bị tạm giữ. Trên tất cả vẫn là con người…

Lúc quản giáo dẫn tôi về phòng, ông ta chỉ thị: “Tôi cho phép anh Vũ Mộng Long đem cà-phê vào”. Buổi chiều, tôi chấm dứt bản tự khai. Ông ta không đọc, không chấp pháp mà cất vào ba-lô…

Ông ta đứng dậy, bắt tay tôi:

– Giữ gìn sức khoẻ.

Tôi bắt tay ông ta. Lần đầu tiên và là lần duy nhất người của Đảng bắt tay tù nhân, chúc sức khoẻ tù nhân…” (Nhà Tù)

Đọc Duyên Anh ta có thế thấy, chưa khi nào giá trị, thân phận con người rẻ mạt như những năm tháng sau 1975. Có thể nói, đó là nỗi đau khó có thể đóng thành sẹo của một dân tộc bất hạnh. Một dân tộc sợ hãi chiến tranh, và sợ hãi ngay cả khi hòa bình, nhưng vẫn phải chấp nhận cả hai. Như một lần ông đã nói (đại ý) như vậy.

*Nỗi cô đơn, bất hạnh với những năm tháng tha hương

Cũng như nhà văn Trần Hoài Thư, hay Lữ Quỳnh, đến được bến bờ tự do Duyên Anh càng thấy lẻ loi, và cô đơn. Do vậy, ông trở lại với thi ca nhiều hơn. Và dường như, chỉ có thi ca mới phần nào giải tỏa được nỗi u uất trong lòng văn nhân. Chính sự cô đọng ấy, thi ca cũng như hồn vía Duyên anh ở giai đoạn này, để lại sự đồng cảm sâu sắc trong lòng người đọc. Dù văn xuôi vẫn giữ vị trí quan trọng nhất trong quỹ thời gian sáng tạo của ông. Ta Và Ta là một bài thơ thất ngôn như vậy của Duyên Anh. Có thể nói, đây là bài thơ hay về nỗi cô đơn tột cùng trong tâm hồn người thi sĩ. Sự khó khăn, buồn phiền không người sẻ chia, cảm thông và bế tắc ấy của Duyên Anh, chợt làm tôi nhớ đến: Sắt Thép Đau. Một bài thơ đau đớn, oan nghiệt của linh hồn, đọc lên ai cũng phải chờn chờn, rợn rợn, được ông viết vào khoảng năm 1975. Như vậy, có thể thấy cái tâm hồn cô quạnh, đa cảm này, không phải khi Duyên Anh phải trốn chạy, lạc lõng nơi xứ người mới có: “Hồn ta thanh sắt đường rầy/ Con tàu oan nghiệt tháng ngày nghiến lên/ Cường toan nhỏ giọt đêm đen/ Lặng thinh ta đếm ưu phiền rụng rơi”. Khác hẳn với văn xuôi, thơ Duyên Anh sử dụng nhiều hình ảnh, điển tích và cổ ngữ. Do vậy, nhiều bài rất hay, sâu sắc, song không hẳn đã dễ đọc. Với đặc điểm này, thơ ông kén người đọc, nhất là giới trẻ. Và cũng chính bài “Ta Và Ta” sẽ cho ta thấy rõ điều đó:

“…Ta đến một mình không có ai

Gập ghềnh địa nạn, dốc thiên tai

Thế gian vùi ngủ uên hồng thuỷ

Thuyền vắng Noé, nước ngập đầy

Ta đến một mình ta với ta

Bỗng dưng thương ngục đá đêm già.

Cuối đường hiu hắt chiều giăng mắc

Thấp thoáng hồ ly đóm lửa xa.”

Không hề nghèo đói, không thiếu bạn bè, người thân và gia đình, nhưng Duyên Anh vẫn cảm thấy bơ vơ, đói khát trên hè phố Paris. Nhớ lại quá khứ, mà ông cứ ngỡ, mình đang ăn mày dĩ vãng, gặm nhấm linh hồn vậy. Cái cảm giác, với những bước chân lỡ nhịp đó của Duyên Anh không chỉ dừng lại ở bài Cái Bang, mà dưới hình thức này, hay cách bộc lộ khác, xuất hiện ở khá nhiều lần trong thi tập “Em Tôi Saigon Và Paris“. Có thể nói, Duyên Anh có tài làm thơ Lục bát, bởi đọc khá kỹ tập “Thơ Tù“ và “Em Tôi Saigon Và Paris“, không có bài dở, hầu như bài nào cũng cảm động cho tôi những cảm xúc khác nhau. Và bài Cái Bang dưới đây chưa hẳn đã nằm trong số những bài hay của Duyên Anh, song nó cho tôi sự đồng cảm của những kẻ xa quê, xa Tổ Quốc trên dưới bốn chục năm (như chúng tôi):

“Bị đeo tưởng đã lệch vai

Vỉa hè đất khách rạc rài bước hoang

Ăn mày chỗ đứng nhân gian

Vì chưng thiếu gậy, cái bang lỡ thời”

Nếu ta gặp hồn vía cổ thi ở những Phạm Ngọc Lư, hay Vũ Hoàng Chương, thì đọc Duyên Anh sẽ thấy, dường như ông đang thổi hồn cổ phong vào thơ lục bát vậy. Đây là một trong những đặc trưng khá tiêu biểu của thi ca Duyên Anh. Khai Bút được ông viết ngày đầu xuân Ất Sửu 1985. Bài thơ không chỉ là nỗi đớn đau, thất bại của người nghệ sĩ tài hoa lỡ vận, mà còn như một lời dự báo về nỗi đau tàn phế và cô đơn bất hạnh mà Duyên Anh thực sự phải gánh chịu vào những năm cuối đời:

“…Ngựa về vết chém ngang lưng

Ủ ê chiến tích rưng rưng chiến bào.

Tài hoa mối gặm hư hao

Tủi thân nhan sắc, nghẹn ngào phấn son.

Đường xa rêu lấp xanh buồn

Hồ ly rình rập hớp hồn tinh anh

Rượu xuân mừng chén lênh đênh

Nghìn năm sau vẫn một mình mình thôi“

Duyên Anh làm khá nhiều thơ có tính thời sự, nhưng “Trót Quên“ viết tặng Huy Cận (người rất yêu thơ về Paris của ông), đã mang đến cho tôi nhiều cảm xúc nhất. Vẫn thể lục bát, viết về một thời lầm lỡ của thi nhân như thể răn đời, và răn mình vậy: “…Vòng tay ôm lãnh tụ hèn/ Vòng tay ôm ý thức điên rối bời/ Vòng tay ôm rã ôm rời/ Đã quên ôm chặt một người mình yêu“. Nếu được phép tuyển chọn, với tôi bài thơ trữ tình: “Bấy Giờ, Em Ơi“ là bài thơ hay nhất trong thi tập Em Tôi Saigon Và Paris của Duyên Anh. Và hơn thế nữa, cùng với Em Đi Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Khi Chưa Có Mùa Thu của Trần Mạnh Hảo, Tình Ca Ban Mai của Chế Lan Viên… Bấy Giờ, Em Ơi là một bài thơ trữ tình hay nhất ở thể ngũ ngôn của thi ca đất Việt. Trích đoạn có lời thơ, hình ảnh tuyệt đẹp, và nhẹ nhàng dưới đây chứng minh thêm tài năng thi ca của nhà văn Duyên Anh:

“…Có bao giờ em nói

Lời tình tự ca dao

Có bao giờ em gọi

Hồn ta về với nhau

Mùi hương nào gợi nhớ

Vườn trăng thoảng hương cau

Con diều nâu đòi gió

Gửi nhạc sáo lên cao

Nhịp võng trưa mùa hạ

Ngày xưa ru ngày sau

Thi ca trong sữa lúa

Tiểu thuyết trên lụa đào…“

Có thể nói, cuộc đời Duyên Anh là một cuốn tiểu thuyết đầy biến cố, và bi kịch. Nhưng bằng tài năng, lòng vị tha, và nghị lực sống đã giúp ông vượt qua những bất hạnh đó, nhất là những năm tháng cuối đời. Cuộc đời và trang viết của ông đi qua nhiều thế hệ người đọc, bởi cái tư tưởng dân tộc, sự can đảm nói, viết những điều không ai dám nói. Vâng, chỉ có sự thật mới cảm hóa được lòng người. Và sự can đảm, tính nhân bản này, là một đặc tính, một nhân cách rất cần cho một nhà văn.

Leipzig ngày 9- 8-2021

Đỗ Trường

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sun Sep 25, 2022 12:51 pm


Nhà văn Duyên Anh (1935-1997) chọc trời khuấy nước

VIÊN LINH

Ảnh Duyên Anh trên một vài bìa sách của ông (Khởi Hành)
Nhà văn nhà báo Duyên Anh (1935-1997) là khuôn mặt khó vẽ nhất trong những chân dung văn nghệ sĩ nổi tiếng sau 1954 tại miền Nam. Cuộc sống và cái chết của cây bút nòng cốt của tuần báo Con Ong gây nhiều xung đột, hành trình văn chương của tác giả Hoa Thiên Lý (tác phẩm đầu tay, Sài Gòn) tạo nhiều mâu thuẫn, trong khi ấy, ông là nhà văn có nhiều tác phẩm xuất bản nhất (trên 50 nhan đề sách trước 75), là người có nhiều độc giả nhất, và mặt khác, là cây bút gây nhiều thảo luận nhất trong các giới. Con người ấy lại là chủ nhiệm một tờ báo thiếu niên, tờ Tuổi Ngọc, viết truyện cho lớp choai choai: Tuổi Mười Ba (1969), Dzũng Đa Kao (1966), Ngày Xưa Còn Bé (1968), và viết về thế giới hè phố, những nhân vật bị coi là côn đồ, du đãng; đến khi ra hải ngoại, 1983, lại trở thành tác giả của những vấn đề thời thế, viết về cộng sản, về chế độ cầm quyền trong nước: Một người tên là Trần Văn Bá (1985), Một người Nga tại Sài gòn (1985), Nhà tù (1987), Trại tập trung (1988), và cuốn hồi ký văn nghệ Nhìn lại những bến bờ (1988).

Viết về Duyên Anh cũng giống như đụng vào một bày ong, chạm vào một tổ kiến, mà con ong cái kiến ấy lại chính là các tác phẩm của ông. Nhiều vô kể và ồn ào vô kể. Tháng 2. 2012 này là ngày giỗ thứ 15 của tác giả Điệu ru nước mắt (1965), tôi sẽ viết về ông như viết về một đồng nghiệp, một người bạn, qua vài kỷ niệm riêng tư.

Duyên Anh tên khai sinh là Vũ Mộng Long, người Thái Bình, sinh ngày 16.8.1935, năm 1954 bỏ gia đình lớn, di cư vào Sài gòn một mình, sinh sống trong ngành thông tin thuộc Bộ thông tin. Khi gần 30 tuổi anh mới xuất bản tác phẩm đầu tay nhan đề Hoa Thiên Lý. Hôm ấy nhân đến thăm một người bạn làm báo cư ngụ ở khu Bùi Viện, gần ngã tư Cống Quỳnh, Nguyễn Cư Trinh, đang đi xăm xăm tôi bị chận lại trên hành lang và tác giả Duyên Anh tặng tôi cuốn sách của anh. Đó là lần đầu chúng tôi gặp nhau. Trước đó khoảng 5, 7 năm, anh sống ở Trảng Lớn, Tây Ninh, như anh kể chi tiết trong cuốn hồi ký:

“Tôi dẫn cô Hiên đi trên hương lộ đi ra thị xã Tây Ninh (…) Cô Hiên và tôi đang sống và bây giờ là 1956 (…) Tôi ở Trảng Lớn hơi lâu rồi. ... giữa tôi và sinh hoạt văn nghệ, báo chí Sài gòn hoàn toàn xa lạ. Văn nghệ ví như đất thánh. Mà tôi, kẻ ngoại đạo. Tôi ôm mộng trở thành nhà văn cũng giống những kẻ tưởng mình sẽ câu được trăng sao in hình trên mặt nước” (Duyên Anh, Nhìn lại Nnhững bến bờ, 202- 203).

Tuy viết thế mà chỉ ít lâu sau, chàng trẻ tuổi đột ngột bỏ cô Hiên, vì muốn một cuộc sống bay bổng hơn một cảnh đời bình dị. Không rõ hư hay thật, cuốn hồi ký kể lại chuyện Vũ Mộng Long đang ôm đàn hát (đàn của Ty thông tin Trảng Lớn), thì một ông thầy bán thuốc sán lãi chạy xe ngang qua. Nghe tiếng hát chàng, ông ta vào làm quen, rủ chàng hãy đi theo ông ta, dùng tiếng hát mưu sinh đây đó, sống cuộc đời tự do nay đây mai đó, hơn là chôn chân ở một xóm quê. Nghe lời rủ quyến, chàng bỏ cô thôn nữ đi theo tay bán thuốc dạo. Nhưng chỉ hơn 4 tháng sau, hai người chia tay vì sứ mệnh: ông bán thuốc chính là một nhân vật đảng phái quốc gia ở miền Trung, bị mật vụ của ông Ngô Đình Diệm truy nã, đang đi kết hợp lại các đồng chí chống Diệm và chống cộng sản, còn Vũ Mộng Long trở về Sài Gòn, quyết đi vào văn nghệ. Trong đoạn hồi ký này, xuất bản vào năm 1988, Duyên Anh đã vô tình báo trước cái chết thảm của mình vào chín năm sau.

Vốn là trên bước đường bán thuốc dạo (kéo dài bốn tháng 13 ngày), hai thầy trò đàm đạo đủ chuyện nhân sinh, triết lý, đạo đức, chính trị, và một hôm thày bảo trò:

“Mày mâu thuẫn với chính mày. Mày sẽ trở thành con người tổng hợp trí nhớ, trí tuệ, trí khôn và trí ngu. Rốt cuộc, mày là đứa đối địa, nghịch thiên, chung thân bất mãn, chồng chất oan khiên. Mày sẽ giống Nễ Hành *[* một tay thuyết pháp trong truyện Tàu] không chết bởi tay Tào Tháo, Lưu Biểu, mà bị bêu nhục bởi đám vô lại Hoàng Tổ” (tr. 222).

Tám chín năm sau, trong khi đang đi trong khu tiệm sách Tú Quỳnh trên đường Bolsa, Quận Cam, Duyên Anh bị đánh bởi một bàn tay sắt. Theo lời của một họa sĩ nhân chứng ngồi trong tiệm ăn Ngân Đình gần đó kể lại, thì Duyên Anh đang đi, có hai kẻ từ phía sau tiến đến gần, lên tiếng gọi. Duyên Anh ngoái cổ lại xem là ai, thì một bàn tay sắt vung lên, đánh một cái gọn vào thái dương anh. Chỉ một cái, rồi người đó và kẻ đồng hành đi thẳng, ra đường Bolsa, khuất sau một góc nhà về phía đường Bushard, biến mất. Duyên Anh bất tỉnh, được đưa vào bệnh viện. Vì định cư ở Pháp, anh không có bảo hiểm sức khỏe ở Mỹ, nên được đưa lên máy bay về Pháp. Cú đánh đã khiến nạn nhân tê liệt nửa người, sau này phải tập viết bằng tay trái. Anh từ trần ngày 6 tháng 2.1997 tại Paris.

Vụ ám hại Duyên Anh đã tốn nhiều giấy mực, và nước bọt, khi dư luận đặt các giả thuyết ai muốn giết nhà văn? Việt cộng, tư thù cá nhân, hay một tổ chức kêu gọi kháng chiến, như câu văn "có linh" anh viết từ nhiều năm trước, viết ở trên: “Mày sẽ giống Nễ Hành, chết bởi tay Hoàng Tổ.”

Văn chương của một tác giả nhà nghề, viết cách gì đi nữa cũng hàm chứa tâm thức và thái độ đối với cuộc sống. Riêng về Duyên Anh, người viết bài này còn nghĩ rằng văn thơ anh là vũ khí của anh. Một hai năm sau cuộc đảo chính 1.11.63, hai tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, lúc ấy đang là nghị sĩ Thượng Viện, xuất bản Nhật báo Công Luận, Duyên Anh phụ trách trang trong, có mang tôi vào làm việc một thời gian, trong khi tôi cũng đang viết truyện dài đăng báo từng kỳ nhan đề "Cuối Cùng Em Đã Đến" cho báo này. Anh cũng nói với ông Tướng Đính để một mục cho Mai Thảo, lấy tên là “Nhận Đường,” đến giờ giao bài, Mai Thảo không viết được, chúng tôi bàn nhau và thỏa thuận hôm đó tôi phải viết thế, nhưng không ký tên, làm như bài đó là do Mai Thảo viết. Sau này mục “Nhận Đường” xuất hiện hàng tuần trên tờ Tuần báo Khởi Hành do tôi làm Thư ký Tòa soạn. Tháng nào đi cắt tóc ở đường Gia Long, Duyên Anh cũng kéo tôi đi cùng, nói đủ thứ chuyện đời.

Thân Duyên Anh từ niên thiếu có nhà thơ Vũ Băng Đình, giám đốc báo chí Phủ Tổng thống, hiện là chàng duy nhất còn sống trong 8 chàng "nhà quê tỉnh Lúa" (Thái Bình), năm 1950 rủ nhau "dinh tê" vào Hà Nội. Băng Đình làm bài thơ có đoạn như sau về bạn:

Duyên Anh văn sĩ Vũ Mộng Long

Bút sắt vườn hoang lúc thẳng cong

Chúng bẩn ông tha hồ viết nhảm

Lâu đài "công lý" ngụ lâu không.

(Thái Bình bát... mẻ, Khởi Hành hải ngoại, 2011).

(Mấy chữ “lâu đài công lý” gồm hai nghĩa: ngoài nghĩa bóng, còn nghĩa thật: nhà Duyên Anh tại Sài gòn là một tòa biệt thự khá sang có sân có vườn ngay trên đường Công Lý, là con đường xe hơi có cắm cờ quốc gia qua lại mỗi khi đưa đón quốc khách giữa phi trường Tân Sơn Nhất và Dinh Độc Lập).

Để kết thúc bài viết nhớ bạn ngắn ngủi này, mời độc giả đọc một đoạn thơ của chính tác giả cuốn truyện "Nặng Nợ Giang Hồ:"

Tôi khôn lớn ở Sài gòn

Biết thấm nỗi buồn sau mỗi cơn chính biến

Chưa hề đi lính

Nhưng bạn thân chết trận dần mòn ...



Em ơi chiều ba mươi tháng tư

Tâm hồn tôi chít mảnh khăn sô

Tôi đứng giữa hoàng hôn nào đó

Như ngày xửa ngày xưa bé nhỏ

Đếm xác người chết đói ngổn ngang

Ôi xác ngày xưa

Hôm nay súng ngắn súng dài mũ sắt quân trang

Nằm rên rỉ dưới dép râu cộng sản ...



Tôi đã đến vùng Orange County

Của Hiệp chủng quốc Hoa kỳ

Và cần thiết thơ tôi tuyên chiến

(…)

Thứ thơ văn tô móng tay khi dân tộc đói nhăn răng

Thơ văn nhầy nhụa môi son

Vênh vang trưng diện ...

(…)

Tôi làm thơ không gióng trống phất cờ

Tôi làm thơ vì công bằng lẽ phải

Thơ nâng niu nỗi khổ mủ sưng

Thơ vuốt ve niềm hiu quạnh quê hương ...

Thơ tôi sẽ tiết kiệm giùm nước mắt

Sẽ lãi gấp trăm trương mục nụ cười ...

(Duyên Anh, Nhân danh tất cả những gì tôi biết)

Viên Linh

Khởi Hành 187+188 Tháng 5+6. 2012

(Đăng lại với sự đồng ý của tác giả)

Viên Linh
Nguồn: litviet.org

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sun Sep 25, 2022 1:06 pm

DUYÊN ANH (1935-1997) NHÌN LẠI BẾN BỜ

Chusalan

Tác giả: Ngọc Thiên Hoa

I. LỜI MỞ:

Giáo sư đại học Sorbonne – nhà văn, nhà sử gia người Pháp Piere Chaune đã viết về Duyên Anh: “Duyên Anh là nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia” (“un grand poète, un gloire natianlae” – vantuyen.net). Quốc gia nào? Không ít người biết Duyên Anh là nhà văn của thiếu nhi và “bạn” của những kẻ cù bơ, những giang hồ thời cũ. Tại sao giáo sư một trường nước ngoài gọi Duyên Anh là nhà thơ lớn?

Vũ Mộng Long (Duyên Anh) sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại Thái Bình. Ông viết văn rất sớm và với số lượng tác phẩm và chủ đề về tuổi thơ, tuổi học trò, về những bụi đời…, Duyên Anh hầu như không có đối thủ trên lĩnh vực này. Những tác phẩm tiêu biểu trong 50 cuốn: “Hoa thiên lý”, “Thằng Vũ”, “Điệu ru nước mắt”, “Ngày xưa còn bé”, “Vết thù trên lưng ngựa hoang”, “Dzũng Đakao”, “Thằng Côn”, “Mơ thành người Quang Trung”, “Tuổi mười ba”, “Bồn lừa”, “Ngựa chứng trên sân trường”, “Áo tiểu thơ”, “Chương còm”, “Mặt trời nhỏ”, “Gấu rừng”, “Cỏ non”, “Lứa tuổi thích ô mai”…

Những nhân vật Trần Đại, Tường Vi, Dũng ĐaKao, Chương Còm…, những “Tuổi ngọc” (tên tòa soạn) mà Duyên Anh viết với các đặc tính lỳ lợm, rắn mắt, nghịch ngợm, giang hồ… thật quyến rũ, mang giá trị hiện thực. Gạt ra những râu ria mà người có nhiệm vụ mổ xẻ cho là tính “chính trị”, thiết nghĩ, khó có ai viết văn mà gọn gàng, văn vẻ, gần gủi cuộc đời với tốc độ nhanh như vậy, nhiều kẻ thù đến vậy. Tiếng tăm văn học của ông vang dội đến nổi nhà nước Việt Nam sau 1975 đã xếp ông vào “một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất” của chế độ. Sự thật đúng vậy chăng?

Tặng cho Duyên Anh một giá trị “một trong những nhà văn lớn của đương thời” (Mai Thảo, Trầm Hương, Mộng Giác, Đinh Tiến Luyện, Hồ Trường An, Nguyễn Tấn Hưng. Võ Kỳ Điền, Thâm Tâm Tuyền…) cũng không nói “nịnh bợ, tâng bốc” cho lắm!

Xét một người với tư cách “nhà văn, nhà thơ”…, người nghiên cứu cần điểm qua hết những sáng tác, những công trình. Chúng ta đừng đứng trên quan điểm chính trị cứng ngắt (chính trị cũng cần cái “ướt át” để thay hình đổi dạng cho hợp với từng giai đoạn, từng hoàn cảnh…) mà loại bỏ một tài năng. Những sáng tác, những công trình nếu chỉ phục vụ mục đích chính trị cho một thời điểm, một chế độ, chúng chỉ có giá trị nhất định trong thời điểm với chế độ đó mà thôi! Chung quy lại, những sáng tác, những công trình mang tính quần chúng, đụng chạm đời thường (vướng mắc tư tưởng, những khát vọng tự do, ước mơ hạnh phúc hay đúc kết những kinh nghiệm sống, những thăng trầm trong thương yêu, những cung bạc hận thù với những điệu ru nước mắt bằng trái tim đau thắt với tiếng lòng không biên giới như tiếng sóng vẫn mãi vỗ nơi bờ) là mang giá trị vĩnh cữu!

Bản thân nền văn học Việt Nam đâu tự nhiên mà có? Nó cũng không chỉ từ một người nào mà nên. Do đó, ta càng không thể phủ nhận công trình “mỗi người góp ít chất xám” từ những con người sinh trưởng ba miền với đẵng cấp, trình độ, nghề nghiệp, chế độ khác nhau… tạo nên nền “Văn học Việt Nam” từ cổ chí kim (không phải chỉ là nền văn học một chế độ).

Duyên Anh đã đặt một viên đá vào “cây trụ đồng” văn học Việt Nam (“Đồng trụ chiết, Giáo Chỉ diệt” – Cây trụ đồng ngã, nước Giao Chỉ bị tiêu theo sự nguyền rủa ác khẩu của Mã Viện).

Những tác phẩm của Duyên Anh nơi xứ người từng đô hộ dân ta một trăm năm lại được người xứ ấy đón nhận hết lòng, ngưỡng mộ vô song thì tại sao ở ngay cái nơi “chôn nhau cắt rún”, chúng lại bị coi như một “kẻ thù nguy hiểm” tệ hơn cảnh “mẹ ghẻ con chồng”? Tâm trạng bị bỏ rơi quả “rất đau” đối với một người nặng nợ văn chương như Duyên Anh nói riêng và những ai vướng vòng nghiệp chướng văn nghiệp nói chung – nạn nhân của “cuộc cách mạng văn hóa” không cần thiết phải là cuộc văn hóa “copy”!

Chúng ta đã từng học câu dạy của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong “Hịch tướng sĩ”: “Kiền canh nóng thổi rau nguội” (“Đương dĩ trường canh suy tê vi giới”# “trừng ư canh nhi xuy tê hề” – Sợ canh nóng quá đến cả rau nguội cũng thổi) để đề phòng bất trắc cho an ninh quốc gia. Tôi mượn câu này với cái ý “đề phòng” nhưng lại “đề phòng văn học” trong lĩnh vực “đại cách mạng văn hóa, tư tưởng, chính trị” của một chế độ đàn anh Trung Quốc thời kỳ 1966 -1976. Thời kỳ này, với bàn tay sắc của Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình (Trung Quốc từng tự hào không có Mao, Trung Quốc không mạnh, không có Bình, Trung Quốc không no) có sự sơ hở. Chính sự sơ hở trong vụ “cách mạng đỏ” của Trung Quốc dưới thời Mao đã ghi vào lịch sử Trung Quốc những bài học sai lầm trong chính sách sắt thép. Đi theo gót đàn anh, Việt Nam thời sau 1975 sao chép y chang những bài học lịch sử này cũng không có gì lạ cho tâm trạng “thổi cả rau nguội vì sợ canh nóng”! Bởi vì, văn học là vũ khí chiến lược rất có hiệu quả cho bất cứ một chiến lược tuyên truyền, vận động. Tư tưởng “sợ văn như sợ cọp” là bởi thế. Dòng “nước mắt chảy xuôi” đã bắt đầu chảy ngược. Dòng văn thơ bên lề cuộc đời đã xuất hiện từ xưa “điểu tận cung tàn” với Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm… được bổ sung thêm bởi những tiếng lòng “đất trời bao la mà ta không chốn nương thân” – chốn nương thân của văn học bất đắc chí dành Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Công Trứ… Văn thơ bên lề đón nhận họ thì nay có dang tay đón thêm một người nữa không phải là danh nhân như Nguyễn Trãi, không đến nổi bần cùng như Tú Xương, không quá ngạo nghễ như Cao Bá Quát, không an phận như Nguyễn Khuyến mà chỉ là loại “rau nguội” để khi đói lòng người ta ăn đó là Duyên Anh?

Nhiều người viết thạo chỉ một lĩnh vực hoặc văn, hoặc thơ, có người tài hoa trên mọi lĩnh vực. Riêng Duyên Anh chỉ khiêm tốn chọn một khoảng giữa văn và thơ. Văn là sở trường còn thơ là là “bất đắc dĩ” khi “gặp thời thế, thế thời phải thế.” Duyên Anh trong một thời gian không dài ở hải ngoại đã nhanh chóng chuyển mình từ “cái tôi” cuộc đời sang “cái ta” của thời cuộc để trở thành một nhà thơ lớn. Nhà thơ, nhà văn lớn hay nhỏ không thành vấn đề. Vấn đề chính ở chỗ họ có đóng góp gì cho nền văn học Việt Nam?

Tôi chỉ là người thích “nói chuyện bên lề” của những trái tim thơ. Những trái tim thơ rỉ máu vì đau thương hay cô đơn hoặc là đá tảng, là băng giá, loạn nhịp đời… cũng làm tôi rung động. Một thoáng rung động này xin gởi đến tập thơ Duyên Anh “Em, Tôi, SàiGòn và Paris”, tôi xin coi như một nén hương tưởng niệm ba năm mất của Người.

MỘT PHẦN ĐỜI DUYÊN ANH VÀ THỜI ĐẠI

1. Duyên Anh: Nỗi buồn “tàn phế”:

Duyên Anh sinh ra giữa lúc cao trào “Xô Viết Nghệ Tĩnh” (1931-1935), phong trào “Phản phong, phản đế” (1935 – 1939) đi đến giai đoạn cuối. Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ đã có những tác phẩm để đời ra đời. Vũ Trọng Phụng tính từ mốc 1935 trở đi đã có: “Cơm thầy cơm cô”, “Giông tố”, “Vỡ đê”, “Số đỏ”. Nam Cao đã có: “Chí Phèo”. Nguyễn Công Hoan có truyện ngắn “Kép tư Bền” (1935). Văn Cao có: “Buồn tàn thu”, “Cung đàn xưa” (1939). Lưu Trọng Lư có “Tiếng thu” (1939). Nguyễn Bính giải khuyến khích thơ của Tự Lực Văn Đoàn với tập “Tâm Hồn Tôi”. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn trong đó có Nhất Linh ra đời tờ “Ngày Nay”, “Kỷ nguyên mới” với Thạch Lam (1935). Khái Hưng có “Trống Mái”, “Gia Đình” (1936). Hoàng Đạo có “Trước Vành Móng Ngựa”, “Mười điều tâm niệm” (1937). Thạch Lam có “Gió Đầu Mùa” (1937)…

Tất cả những tác phẩm viết từ thời đó đã phản ảnh trung thực không nhiều thì ít những vấn đề thuộc địa, vấn đề đề cần lao, phản phong, phản đế. Đồng thời, chúng ít nhiều đứng về những người dân quê, những tầng lớp trong xã hội trong những năm tháng “Súng đạn nổ nhiều hơn hoa nở. Kiếp sống mòn nghẹt thở, kiếm lối ra”.

Nỗi đau dân tộc bị chia cắt như một đoàn tàu bị cắt thành nhiều đoạn. Bốn mươi năm sau, hình ảnh đoàn tàu chia cắt từng đoạn đó đã không mờ mà vẫn hiện rõ từng mối thương tâm, ray rứt trong “Sắt thép đau” của Duyên Anh:

Hồn ta thanh sắt đường rầy

Con tàu oan nghiệt tháng ngày nghiến lên.

Cường toan nhỏ giọt đêm đen

Lặng thinh ta đếm ưu phiền rụng rơi!
(1975)

Hãy đặt bài thơ trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ là năm 1975: Con tàu đã nối kết Bắc – Nam nhưng “cơn bão loạn lạc” đã dạt nhà văn này sang bờ cải tạo. Nếu cuộc “Cải cách ruộng đất năm 1953-1956” với chủ trương “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” như nạn diệt chủng với bao nhiêu oan khiên hận thù ngút ngàn, rồi đến việc loại bỏ cái gọi là “Nhân Văn – Giai Phẩm” hơn bốn mươi văn sĩ như Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Đào Duy Anh, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Văn Cao, Phùng Quán, Trương Tửu, Phan Khôi… là một sai lầm lớn thì cuộc “Cải cách ruộng đất năm 1976” với chủ trương, chính sách “Di dân từ Bắc vào Nam” tạo ra một cuộc di dân bản địa lên “Kinh tế mới” như một cuộc tái chiếm miền Nam lần thứ hai đã làm dân tình đảo lộn, thế sự rối ren. Lại thêm “chính sách tư tưởng văn hóa” cấm văn sĩ sáng tác tự do. Đó có khác nào bẻ tay, chặt chân? Con cua bò bằng tám cái càng, nay bị bẻ càng thì nó bò làm sao? Sống làm sao?

Thế là “thanh sắt đường rầy” được “tôi luyện” để cho những chuyến xe lửa chạy qua, chạy về đưa người về bến bãi nay bỗng bị vứt bên lề trở thành phế liệu! Cái hồn người đang tràn trề khát vọng, sống kiếp tầm nhả tơ dệt cho đời những sắc màu huyền thoại bỗng chốc bị tách ra, xô dạt vào một chỗ không còn gì để bám thì có khác nào cái “thanh sắt đường rầy” kia đón một “chuyến tàu oan nghiệt” không như đợi mong! Hai hình ảnh, hai vế so sánh ngầm với cách ”vật hóa” để nhằm nói lên một nỗi đau không được trọng dụng, thiệt hoài phí. Đàn ông tuổi bốn mươi chỉ mới là bắt đầu những “tinh hoa phát sáng”. Bẻ bút từ giai đoạn này, đời coi như tàn phế!

Với Duyên Anh, bẻ bút là tàn phế cộng với nỗi ê chề. Một động từ “nghiến” lột hết sự tàn nhẫn của tháng ngày vô vị đã trở thành kẻ sát nhân trí tuệ nghiến nát tâm hồn con người. Thử tưởng tượng xem: Bác sĩ bị tước bằng hành nghề, nhạc sĩ không được kẽ dòng nhạc, họa sĩ không cầm cọ, giáo viên không cho cầm viên phấn… đồng tàn phế như nhà văn, nhà thơ không cầm bút. Thôi thì… ăn một viên đạn “ân huệ” cho xong!

Với hình ảnh ẩn dụ của đường tàu, sắt thép, Cung Trầm Tưởng đã nhìn thấy sự lỡ làng vì thời cuộc:

Con tàu khởi động đã từ lâu

Nên chuyến ra đi lại trễ tàu.

(Khoảng cách)

Sự “trễ tàu” cũng như “trễ chuyến đò” định mệnh của Huỳnh Liễu Ngạn trong “Thuận An”

Trễ chuyến đò đưa chung lòng qua bến

Hai nẽo đời – hai nẻo mộng – sơn khê.

Trong khi đó, Tô Thùy Yên cảm nhận một cơn đau âm ĩ:

Tàu đi như một cơn điên đả

Sắt thép kinh hoàng va chạm nhau.

Ta tưởng chừng nghe thời đại động

Xô đi ầm ĩ một cơn đau.

“Sắt, thép, con tàu” và nỗi đau của Duyên Anh sâu sắc, ẩn dụ hơn với sự tàn phế. Cái hay, cái tài của Duyên Anh là chỉ dùng hình tượng, mượn cảnh mà tâm tình. Trong “Sắt thép đau” ngoài cái “đau” của tựa đề, ta không thấy chữ “đau” thả xuống toàn bài thơ mà lại thấm thía “cái đau” của người chỉ còn biết “lặng thinh ta đếm ưu phiền rụng rơi”. Tức là ngày đã tàn, đời đã tan!

Trong bài “Phù ảo” chỉ có 6 câu nói về cái thân trong tù mà ta không thấy có một chữ tù; nói ý “buồn tàn thu” như Văn Cao đã dạo thành ca khúc mà lại không thấy chữ buồn, chán nào:

Ngồi đây cứ tưởng ngồi đâu

Không xin ở lại, chẳng cầu ra đi.

Trong ta bít lối chia ly

Ngoài người biết có nẻo về thênh thang.

Thoáng ban mai, vội chiều tàn

Mới hay hồn đã úa vàng kiếp xưa.

(1975).

Một nhà văn có tầm cỡ, một người đàn ông tuổi bốn mươi mà đã “bít lối”, nẻo đi đường về “thênh thang”, mơ hồ. Người buồn cảnh có vui đâu thì lấy gì mà không thấy bóng chiều, lấy gì mà không nghe cái hồn mới sáng là “ban mai” mà đã “chiều tàn” già cỗi? Buồn quá! Đọc câu thơ này, ta cảm nhận tâm sự man mác của Đặng Dung ngồi mài gươm dưới trăng chờ chặt đầu tên giặc gian ác Trương Phụ thời Minh ngày nào:

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

(Cảm hoài)

(Gặp thời, kẻ thường cũng thành công. Anh hùng lỡ bước ôm hận lòng!) Sao mà chua chát! Sự chát chua đó, trước kia ngàn năm đã có Lý Bạch mượn chén rượu say mèm đến bỏ mặc sự đời trong “Xuân nhật túy khởi ngôn chí”:

Xử thế nhược đại mộng

Hồ vi lao kỳ sinh?

(Giấc mộng của đời lớn quá biết làm gì, nhọc lòng mà chi?). Bài thơ khai bút đầu năm của Lý Bạch mãi cho đến mấy thế kỷ trôi qua mới được tác giả Hoa Thiên Lý – Duyên Anh “Khai bút” lại vào ngày mồng một tết Ất Sửu:

Hình như trên mỗi nụ đào

Nỗi ta phảng phất chiêm bao cuối đời.

Rượu xuân mừng chén lênh đênh

Nghìn năm sau vẫn một mình mình thôi.

Ta không thấy Duyên Anh nói một từ “chán” hay một lời trăn trối mà y như ta đang nghe lời thì thào, trăn trối với nỗi “phảng phất chiêm bao cuối đời”! Giấc “chiêm bao” mà “cuối đời” mà cái đời đã “tắt lửa thiêng”, mà cái đời chỉ là “thanh sắt đường rầy” mặc xác cho tháng ngày “nghiến” thì chỉ là một giấc chiêm bao tàn lụi, một đốm lửa chập chờn lóe lên rồi vụt tan biến! Người ta hồn nhiên, như ý thường có những giấc chiêm bao đẹp, no nê. Một Nguyễn Bính trong “Cô hàng xóm” trong giấc ngủ chàng đã thấy gì?:

Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng

Có con bướm trắng thường sang bên này.

Một giấc chiêm bao tương tư lãng mạn bởi lẽ chàng ta chưa bị “con tàu oan nghiệt tháng ngày” nghiến qua đời. Duyên Anh sinh sau Nguyễn Bính mười sáu năm lại không có giấc chiêm bao lãng mạn đó. “Nụ đào”, nụ hồng là hình ảnh của mầm sống, là tuổi trẻ và ước mơ nhưng Duyên Anh đã không thấy sức sống đó nữa. Anh chớp mắt đã thấy đời tàn lụi ngay trên cái mầm mới vừa lú lên đã… chết héo! “Sáng chưa hạnh phúc đã oan nghiệt chiều” đó cũng là lời ru mà Duyên Anh đã tự “Ru ta, ru người”. Trong “SàiGòn ra đường”, Duyên Anh đã nhận ra sự thay đổi nhanh chóng của con người:

Mắt chim khuyên đã diều hâu hết

Cuối xuống nhìn lên vẫn ngậm ngùi.
(1981)

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sun Sep 25, 2022 1:20 pm

Con người tráo trở nghĩa nhân, đánh mất lương tri và hèn nhát. Tác nhân chính vẫn là thế thời mà con người đành phải làm con, kỳ nhông, tắc kè mới qua thời khốn khó. Duyên Anh thở dài trong “Bài ta”:

Chiều nay ta thấy ra rời rã

Nhan sắc hồng lâu nguội phấn hương.

Ta cũng bắt chước Đặng Dung thốt: “Thế sự du du nại lão hà” để chia sẻ nỗi niềm cay đắng, già trước tuổi với chàng trai tác giả “Mơ thành người Quang Trung” nay đã thành “phế nhân”. Con người “phế nhân” mà Hàn Mặc Tử đã đau đớn kêu gào so với “phế nhân” Duyên Anh có khác gì nhau? Khác xa về nghĩa thật. Một bị “phế” phần “Hồn”, một bị “phế” phần “Xác”. Con người phải hài hòa giữa hai phần hồn và xác. Thiếu một trong hai phần đó, con người chỉ còn lại một từ “phế” giống nhau đến buốt lòng. Duyên Anh đã ôm cái buốt lòng ấy mà “hoài cổ”:

2. Duyên Anh: Nỗi niềm luyến tiếc quá khứ:

Con người khi lỡ “đu dây cuộc sống” té nhào, không bám rễ vào hiện tại thì chới với, phải “bám víu” vào quá khứ. Quá khứ càng rực rỡ bao nhiêu thì sự luyến tiếc càng lớn bấy nhiêu và làm cái hiện tại rã rời thêm nữa. Luyến tiếc của Duyên Anh là sự luyến tiếc “tài hoa” không được sử dụng và có sử dụng thì cũng không đúng tầm. Từ cổ chí kim người ta vẫn gọi là “bất đắc chí” mà Duyên Anh đã mượn hình ảnh con ngựa để tỏ bày u uẩn trong “Khai bút”:

Ngựa về vết chém ngang lưng

Ủ ê chiến tích rưng rưng chiến bào.

Tài hoa mối gặm hư hao

Tủi thân nhan sắc, nghẹn ngào phấn son.

Hai câu đầu đã đủ gợi lại một cảnh chiến trường mà kẻ thua không thấy xác và kẻ thắng cũng tan tác, cũng lằn dọc, lằn ngang. Chiến trường cũng là nguồn cảm hứng là chất liệu cho thi ca. Đỗ Mục đời Tam quốc khi đi ngang qua sông Xích Bích đã không nén được cảm xúc mà “khai bút” trong “Xích Bích hoài cổ”:

Chiếc kịch trầm sa thiết vị tiêu

Tư tương ma tẩy nhận tiền triều.

(Lưỡi kích còn vùi dưới cát, có thể thấy dấu vết triều xưa). Bởi con sông Xích Bích là nơi Chu Du mượn gió Đông mà đốt 80 vạn quân Tào Tháo. Thắng bại gì cũng tạo ra vô số oan hồn chết chốc làm người hoài cổ rơi lệ!

Trương Hán Siêu vì cảm kích con sông Bạch Đằng – mồ chôn hai lần giặc Nguyên – Mông thời Trần Hưng Đạo và Ngô Quyền mà đã có bài “Bạch Đằng giang phú” nổi tiếng!

Trở lại “chiến trường” của Duyên Anh trong lục bát “khai bút”. Lục bát dành cho ca dao thì trơn tru, dành cho dòng thơ tình yêu thì man mác niềm vui trong cay đắng lẫn nỗi đau trong ngọt ngào, dành cho nỗi niềm tâm sự “công không thành, danh không toại” là tiếng nấc nghẹn ngào, ngỗn ngang bao nỗi! Bốn câu lục bát trên, tự nó vạch nhịp 2/2 rõ ràng đều đều không đổi nhưng tôi vốn không thích lắm cách mổ xẻ vạch, bằng, trắc nhức đầu, chóng mặt, rối rắm, vô bổ nên lui xuống một bước để cho người đầy đủ công lực thơ chuyên nghiệp xông vào.

Dòng nhạc hay, hấp dẫn một phần nhờ phách, nhịp được hình thành do cao độ, trường độ, cường độ, âm sắc nhưng thơ thì tự người viết cảm hứng, bức xúc mà viết ra nên tự nó có nhịp sẵn. Không ai sắp nhịp sẵn nằm dài đó rồi bỏ chữ vào. Thơ phải có luật nhưng luật của thơ chính là dòng cảm xúc chứ không phải ba cái bằng, trắc chết tiệt kia! Với dòng cảm xúc của Duyên Anh, sự mã đáo thành công đã không là niềm kiêu hãnh của kẻ thắng cuộc. Hình ảnh kẻ thắng trận ủ dột quá, ngậm ngùi quá qua phương cách nhân hóa: Chiến tích biết ủ ê, biết ê chề; chiến bào rưng rưng lưng tròng nước mắt. Con ngựa, chiến bào là hiện thân của một con người qua ẩn dụ lần nữa lại trở thành kẻ bại trận không phải kẻ thắng.

Trong “Quá Linh Đinh Dương” của Văn Thiên Tường đời Tống có hai câu như một phương cách sống của kẻ làm người:

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

Ý ngụ rằng ai mà không chết! Vì thế cần lưu lại tấm lòng son cho sử xanh. Con “Ngựa chứng trong sân trường” sau khi lao ra “chiến trường sách vở” thì đã trở về với “Vết thù trên lưng ngựa hoang”! Chiến trường súng đạn gươm đao với chiến trường chữ nghĩa lại khác nhau mà thương đau giống nhau như chữ “phế” trong “phế nhân”. Duyên Anh lại không nhắc đến chữ “anh hùng” mà ta lại liên tưởng liền đến con người anh hùng. Anh hùng trên chiến trận và anh hùng trên văn đàn khác nhau mà cũng giống nhau ở chỗ “hãnh diện” vì đã dám “tử chiến giữa sa trường”! Nhưng ngựa Duyên Anh trở thành con ngựa bị thương.

Con ngựa trong Hoàng Trúc Ly với “Nhân dạng” cũng thê thảm:

Mây còn bay cho chim chấp cánh

Ngựa què rồi em cỡi lưng anh

Thế là chút hãnh diện còn lại cũng bị thương tổn, bị què quặt mất luôn. Vì sao vậy? Bởi vì “chiến tích” ngày nào đã không được coi trọng, áo chiến bào cũng nằm một xó, rưng rưng vì người ta đã không cần đến nó nữa. Sau đó, chịu không thấu cái ngụ ý lấp lửng, Duyên Anh đành phải bộc bạch:

Tài hoa mối gặm hư hao

Tủi thân nhan sắc, nghẹn ngào phấn son.

Câu đầu lại là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo: Con mối ăn luồn tài hoa của con người. Con mối gặm giấy vở, gỗ chứ nào gặm được sự “tài hoa”. “Tài hoa” đó lại ngầm theo hai nghĩa: Một, tài hoa đã phát tiết trên từng trang sách không ai đọc, bỏ mặc cho con mối (mối thật) gặm. Hai, tài hoa là con người không có đất dụng võ nữa thì thành là miếng mồi ngon cho loài mối (mối người) chết tiệt chuyên phá hoại kia. Khổng Tử từng nói: “Dụng nhân như dụng mộc” nhưng ông cũng cho “Gỗ mục không thể khắc”. Vậy thì lũ mối kia đã là tác nhân cho sự mục ruỗng, vô tích sự này!

Nhìn lại lịch sử văn học đi cùng lịch sử Việt Nam thì những giai đoạn giao thời 45-54, 54-75, tiếng Việt chính vẫn là cái chữ quốc ngữ đâu phải chữ Tàu, chữ Tây gì mà kẻ viết văn phải gát bút, lặng lẽ rút lui để người thưởng thức nỗi ngậm ngùi như “Ông Đồ già” của Vũ Đình Liên khi:

“Giấy đỏ buồn không thấm, mực đọng trong nghiên sầu”:

Ông Đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Nỗi ngậm ngùi, luyến tiếc ở đây là cái tiếc một tài hoa với “đôi tay thảo những nét như phượng múa rồng bay” của ông đồ già khi không ai thuê viết chữ Tàu nữa. Còn sự ngậm ngùi, luyến tiếc tài hoa của Duyên Anh là cái gì? Tác giả cũng không hề nói mà ta cũng đã biết đó là: Những tác phẩm trong nước đã bị tịch thu, bị cấm, bị hủy! Tác phẩm ở nước ngoài thì “văn mình, vợ người” giữa bao nhiêu là Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Câu Tiễn?

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sun Sep 25, 2022 1:36 pm

Đọc tiếp câu sau, ta không khỏi giật mình khi Duyên Anh đã cho câu: “Tủi thân nhan sắc nghẹn ngào phấn son” vào đây. Duyên Anh hình như đã chế ngạo, mỉa mai thân phận mình như một người đàn bà? Ta muốn cười mà cười không được vì câu thơ có “tếu” một chút nhưng buồn não ruột. Hóa ra không phải Duyên Anh đem đàn bà vào thơ để riễu mà chỉ là qua cách nhân hóa “nhan sắc tủi thân, phấn son nghẹn ngào” thêm nét hoán dụ, bổ sung cho “tài hoa” bởi sự thiên phú (nhan sắc), bởi sự trau chuốt (phấn son) để nói đến con người vô dụng mà thôi. Thiên tài không phải có sẵn mà phải do mình luyện tập cần cù mà ra. Càng đọc kỹ mới thấy tứ thơ “ý tại ngôn ngoại” trong thơ Duyên Anh thâm thúy lắm. Người càng cay đắng, thơ càng hay. Gừng càng cay, tình càng nồng. Quan niệm của người xưa vẫn đúng đó mà!

Nhìn lại những tác phẩm văn học từ cổ chí kim, từ trong nước đến ngoài nước, mấy ai có cái may mắn bước qua cái cầu văn học mà không chìm nổi lênh đênh. Văn học đi cùng lịch sử. Lịch sử thay đổi qua từng triều đại. Bên kia công thần thì bên này là đối nghịch. Duyên Anh đã đối nghịch với biến cố 1975 nhưng thơ Duyên Anh chẳng thấy một câu chửi rủa hạ cấp mà chỉ là tiếng kêu của con chim Cuốc. Hoài cổ chỉ còn là tiếng thở dài tiếp nối thở dài trong “Ta và ta” năm 1986:

Hồn oan sa vũng bùn luân lạc

Thoi thóp hoàng hôn, mỏi cánh chim.

Duyên Anh lúc này đã 51 tuổi nhưng cái tuổi độ ấy so với ông Bành “vẫn thiếu niên” mà ngẫm nghĩ ra, khi người ta không làm được cái tích sự gì thì cảm thấy “già” ghê lắm.

Nguyễn Công Trứ lận đận trên con đường quan trường, thi cử nên chữ già thêm nặng nề: “Đồi hồ mao phát tiệm tham lam. Bất giác niên đăng ngũ thập tam. Đương thế thi thư hà sử dụng. Lão lai quan đái thương đa tâm”:

Tuổi thêm thêm được tóc râu phờ

Nay đã năm mươi có lẻ ba!

Sách vở ích gì thời buổi ấy

Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.

(Xuân nhật thị chư nhi – Ngày xuân răn con cháu)

Duyên Anh cũng không nói chữ “già” nhưng lại thêm nét nhân hóa “hoàng hôn thoi thóp”, “cánh chim mỏi” đảo vị ngữ nhấn mạnh cái gì khác hơn sự tàn tạ? Tuổi già mới tàn tạ, mới thoi thóp, mới mỏi mệt vậy. Con người vô tích sự khác nào con người già cỗi. Ta lại thấy hai nghĩa già đen, bóng của thể xác, của linh hồn đều giống ở chỗ “tàn tạ”, bị “quên lãng” cả.

Tế Hanh nổi tiếng với “Nhớ con Sông quê hương” lại chạnh lòng với những con đường:

Những con đường bị bỏ trong quên lãng

Sầu tủi nằm thương dưới bụi mờ.

(Có những con đường)

Những con đường vô tội còn bị bỏ quên huống chi là con người “có tội”. Đường đời như thế, “đường người” là cái chi? Hãy nghe Duyên Anh than trong “Bài lưu đầy” 1987:

Đường người chó sói nhe răng nhọn

Nghe buốt đau thương cả đế giầy

Vàng thau lẫn lộn phiền than lửa

Ngọc đá ganh đua rộn dũa mài

Thế gian lẫn lộn như “vàng thau” chẳng biết đâu là chó sói với người thường? Chán lắm thay! Xem ra, “vết chém ngang lưng” con ngựa trong “khai bút” và cái “chém ngang” độc nhất vô song trong “Lý Thông” đều cùng một đao phủ chém mà “chém ngang” có nghĩa là chém giống như người ta… sả cây chuối làm hai khúc đều nhau, “hết cựa”! Giọng thơ ca ngợi vết chém “có một không hai” hàm hai nghĩa mỉa mai và cực kỳ chua chát nhưng ta không tìm ra một câu nào tỏ vẻ “phẩn nộ” hoặc “căm thù” tên “đao phủ” ra chiêu độc!

C.t.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Thu Sep 29, 2022 6:11 am

Hồ Xuân Hương lúc bực thân phận thôi cũng đòi “chém cha, chém chú”. Tú Xương thi hoài không đổ cũng “quạu” lên đòi “bỏ văn chương học võ biền”. Cao Bá Quát trước khi bị xử trảm cũng rủa “cha kiếp”, “mẹ đời”. Nguyễn Công Trứ ê chề cảnh quan trường cũng buồn “trách ông xanh”, ông đỏ. Riêng kẻ sinh sau đẻ muộn như Duyên Anh tất “khôn ngoan” hơn. Người ta nói: “Kẻ hiểu biết thời cuộc mới là tuấn kiệt”, Duyên Anh chưa hẳn là “tuấn kiệt” nhưng trong “Sông lấp”, Anh đã nói thẳng:

Trái tim anh hằn rõ những lằn roi

Anh khôn quá nuốt từng hơi thù hận

Cứ thế mãi lòng anh đầy u ẩn

Tâm tư anh rướm máu uá trên đường.

Đọc thơ Duyên Anh mới thấy rằng Duyên Anh quả thật “hồn oan”. Thơ Anh có nói “thù hận” mà ta không thấy cái hận thù sâu đến cỡ nào chỉ thấy thương tâm cho một “hồn oan” đang chứa đầy nỗi “u ẩn” (không bày tỏ được cùng ai), một “tâm tư rướm máu” (bị tước bỏ một trái tim thơ). Hỡi ơi! Lòng đầy u ẩn ấy đã bị rấy phá bởi “từng hơi thù hận” ám ảnh suốt đời là những con “hồ ly”, những tên “Lý Thông” trong “Ta và Ta”:

Cuối đường hiu hắt chiều giăng mắc

Thấp thoáng hồ ly đóm lửa xa.

hoặc trong “Khai bút”:

Đường xa rêu lấp xanh buồn

Hồ ly rình rập hớp hồn tinh anh.

hay trong “Nhớ cổ tích”:

Bộ xương cá bóng là dao nhọn

Đâm nát hồn ta lũ Lý Thông.

Những “hồ ly”, “chồn tinh” của Duyên Anh khiến ta nhớ đến một Đắc Kỷ mê hoặc Trụ Vương làm tiêu tan mấy trăm năm nhà Trụ. “Hồ ly” của Duyên Anh không phải là những Đắc Kỷ mà chính là “hồ ly” người mưu sâu, kế quỷ ác với đồng loại. Thời đại nào mà không có những hồ ly, những Lý Thông gian ác, quỷ quyệt, tài chẳng bằng người nên tim nhuốm màu đen!

Khi bóng dáng “Hồ ly” trong Vũ Đình Chương mờ ảo:

Hồ ly không hiện, người không đến.

Chỉ ánh trăng vào khuôn cửa thôi!

thì bóng dáng “biển dâu có khoác áo chồn tinh” trong thơ Duyên Anh cũng hiện đầy không bụt nào trừng phạt! Buồn tàn cuộc đã đến lúc hạ hồi phân giải. Quá khứ chìm đi trong nỗi buồn tàn phế, nỗi “bất đắc chí” lại quay về với “cái tôi” trong Duyên Anh.

3. Duyên Anh: Trái tim chua chát, ngạo trời.

Với những người tài không được dụng, nỗi niềm “bất đắc chí” biểu lộ theo nhiều chiều hướng khác nhau phù hợp từng tính cách của mỗi người. Cao Bá Quát được người đương thời coi là một văn tài xuất chúng ở thế kỷ XIX lại là kẻ bị đánh trượt nhiều lần nên đâm ra ngạo mạn cả với triều đình. Họ Cao đã từng ngạo mạn với cả vua Tự Đức nên cái kiêu căng, ngạo nghễ của Bá Quát mang tính chất cá nhân đáng nễ. Ngay cả ở trong tù, Cao vẫn ngông cuồng, chơi chữ với cái vòng xích sắt sao dám cùm chân một bậc ngang Thiên tử, Vương tôn:

Một chiếc cùm lim chân có Đế

Ba vòng xích sắt đứng thì Vương.

Nhìn thấy được cái “bi” của tư tưởng này, Duyên Anh trong “Bài ta” năm 1987 đã đồng điệu qua lối chơi chữ biến danh từ thành động từ thịnh nộ thế thời:

Hỡi Cao Bá quát trùm thiên địa

Một nhát gươm vung rớt mộng cuồng.

Nguyễn Công Trứ không có cái “vài chung lếu láo” cũng như ”mộng cuồng” của Cao Bá Quát bởi ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Con đường hoạn lộ của ông khi là Binh Bộ Thượng Thư, khi tuột dốc làm một tên lính thú, dù sao, ông cũng mắn may hơn Chu Thần. Do đó, cái chua chát, ngạo đời của ông cũng thật lặng lẽ, chỉ trách cứ tạo hóa trớ trêu:

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

Giữa trời vách đá cheo leo

Ai mà chịu rét thì trèo với thông.

Ta thật ngưỡng mộ cái tính khí này của ông quá, một thách thức không thua gì Chu Thần nhưng khẩu khí nhẹ nhàng. Nguyễn Khuyến không có tính khí trên nhưng trái tim chua chát, ngạo đời sau mấy kỳ thi hỏng rồi thăng quan tiến chức đến “sụn bà chè” như Công Trứ nên âm thầm quay về “tự trào” với mình: “Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ” (Tự trào) “Nghĩ ra ông sợ cái ông này” (Tự thuật).

Duyên Anh mang những đặc tính của ba người. Thơ Anh với trái tim chua chát nhưng không ngạo vương quyền, không thách thức con người, không cười mình mà ngước nhìn trời cười ngạo:

Thản nhiên ngước mặt ngạo trời

Trong cơn hồng thủy vẫn cười ngửa nghiêng.

Kể từ đời tắt lửa thiêng

Nỗi ta đối địa nghịch thiên mộng cuồng…

Chung thân can tội nghịch thiên

Còn say cuồng vọng thản nhiên ngạo trời.

(Nghịch thiên – 1987)

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Sun Oct 09, 2022 4:27 pm

Ta thích tính cách cao ngạo của Cao Bá Quát. Ta ngưỡng mộ Nguyễn Công Trứ với khí khái của ông. Ta cảm thông nổi cười cợt thâm trầm của Nguyễn Khuyến. Nếu Duyên Anh còn sống, ít ra thế gian này còn có vài người “can tội nghịch thiên” không cô đơn cho lắm. Cái “mưu sự tại nhân” nhưng “thành sự tại thiên” kia không đổ cho trời thì đổ vào ai? Duyên Anh ngạo trời mà còn tự nghĩ mình có tội. Tội lỗi gì? Trời đất tính đi, nghĩ lại cũng chỉ là “bạn bè” với con người với câu “vũ trụ chi giao huynh đệ”. Khi đất trời nổi quạu thì cũng ác liệt, nghiêng ngã:

Tiếng vang vang như thần kêu quỷ hét

Trời ngập ngập như quân khiêu tướng hét.

(Chính khí Việt – Lý Đông A)

Thiên tai làm con người lâm cảnh “màn trời chiếu đất”, con mất cha, vợ khóc chồng thì chửi “thằng bạn” này vài tiếng “trời già mắc dịch, khốn kiếp” đâu có gì gọi là quá quắc!?

Đời suông sẻ “thuận buồm xuôi gió” ai ngạo trời làm gì! Người hạnh phúc không phải “đưa người ta không đưa sang sông”, không làm kiếp hát rong, kiếp đưa đò, ai ngạo trời làm chi? Kẻ không sợ trời, không sợ đất, ít ra phải có một bản lĩnh nhất định nào đó: Một tài năng bị vùi dập, một trái tim nhân đạo bị bàn chân vấy bùn dẫm lên, một khối óc biết lẽ đời bị chính cái trái đời giam hãm… Con người thiếu những cái cần có trên đời tầm thường, sống chẳng biết vấn vương làm sao mà có cái quá khứ “liệt oanh” mà vương, làm gì có dĩ vãng “đau thương” mà nhớ!

Duyên Anh dù nói “say cuồng vọng thản nhiên ngạo trời” nhưng lại là một lời cam chịu, dù nói “nỗi ta đối địch nghịch thiên mộng cuồng” nhưng ta không thấy sự đối nghịch thù hằn gì cũng chẳng thấy cái “mộng cuồng” là cái gì dữ tợn?

Nguyễn Công Trứ với mộng cuồng chỉ về với chén rượu, cảnh vật trong “Thoát vòng danh lợi”:

Hẹn với lợi danh ba chén rượu

Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ

Cao Bá Quát với “mộng cuồng” cũng quay về chén rượu, câu thơ trong “Đời người thắm thoát”:

Chén rượu thánh, câu thơ tiên thích chí …

Bốn mùa xuân lại, thu qua.

Nguyễn Khuyến với “mộng cuồng” cũng không thoát cảnh “uống rượu tiêu sầu” trong “Tự thuật”:

Câu thơ được chửa, thưa rằng được

Chén rượu say rồi, nói chửa say.

Hồ Xuân Hương trong “mộng cuồng” cũng chỉ muốn “đổi phận làm trai” trong “Đền Sầm thái thú” thôi:

Ví bằng đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.

Ngay cả Lý Bạch trong “mộng cuồng” cũng vớ quách chén rượu trong “Xuân nhật túy khởi ngôn chí”:

Sỡ dĩ chung nhật túy

Đồi nhiên ngọa tiền doanh

(Say cả ngày, nằm đại trước cột hiên).

Tú Xương “mộng cuồng” khi vác trời bán đại trong “Tự cười mình”:

Lúc túng toan lên bán cả trời

Trời cười thằng bé nói hay chơi.

Nguyễn Trãi từng nói: “Lão khứ cuồng hưu quái ngã” (Già rồi hay nói cuồng, đừng lạ ta) để chua chát cho cái thời “điểu tận cung tàn”! Nói chi cho xa xôi, người cùng thời với Duyên Anh (lớn hơn vài chục tuổi) là Hàn Mặc Tử trong “mộng cuồng” tuy không uống rượu nhưng cũng vác… trăng rao bán cả đêm: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho”!

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Fri Oct 14, 2022 8:50 am

Kẻ tầm thường mượn rượu để mạnh miệng chửi người. Người bất phùng thời mượn rượu để tiêu sầu, để khơi hừng cái gan “đội đá vá trời” của Nữ Oa.

Hà Huyền Chi cũng từng như thế trong “Đỉnh nhớ”:

Rượu đau tính chuyện vá trời

Chai đầy hận nước, cha vơi thù nhà.…

Chôn đi ngàn nỗi tủi phiền

Ngàn tên vong bản đã quên tiếng người.

Chao ơi toàn là những người tài hoa, những kẻ có trái tim rướm máu, có khối óc đau lẽ đời ôm “mộng cuồng” hết trọi:

Mộng cuồng quả đúng mười mươi

Chờ ta xuống dưới cùng chơi với người.

Có chút khoác lác. Đó là “mộng cuồng” của một nthh, đừng để ý.

Tâm tưởng “mộng cuồng” của Duyên Anh hóa ra gợi một nguồn cảm hứng cho ai thích viết cuồng. Một chút “lạc quan” từ cõi “tàn phế”, từ cõi “lưu đày” là điểm sáng cuối cùng của Duyên Anh (thản nhiên, cười) dù chỉ là chút sáng le lói nhưng thật đáng trân trọng. Khí khái này của Duyên Anh giống Trần Bình Trọng ngữa cổ chịu chém tại pháp trường Thiên Tường – Trung Quốc vì không chịu đầu hàng giặc Nguyên. “Mộng cuồng” của Duyên Anh “hiền lành” hơn. Ngay cả khi Duyên Anh để cho: “Bộ xương cá bống là dao nhọn” tưởng đâu “đâm chết” lũ Lý Thông, ai ngờ lại trở ngược để cho bè lũ Lý Thông lấy dao nhọn đó “đâm nát hồn ta”! Kết cục bất ngờ: Người bị đâm chịu nhát dao oan nghiệt còn kẻ đâm ra tay độc hơn, chúng không đâm một nhát vào tim cho kẻ bị đâm chết quách mà lại đâm đến… nát bấy cái hồn người?

Thơ Duyên Anh với trái tim chua chát, ngạo đời không có một dòng cầu xin thương xót mà ta vẫn nghe thương đến đắng lòng. Nỗi đau này đâu của riêng ai lại là “rất riêng” cho từng con người trong từng hoàn cảnh. Nếu Nguyễn Công Trứ muốn làm cây thông hiên ngang, Xuân Diệu muốn làm một ngọn Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ thì Duyên Anh vẫn chỉ cười một cái “cười ngửa nghiêng” ra nước mắt.

Một Thanh Nam nối tiếp mộng cuồng thì lại ru mình với cái “tôi” bất lực:

Ta ru ta khúc ưu phiền

Ngủ ngon đi nhé cơn điên hôm nào.

Đêm cuối năm uống rượu một mình)

Cái “tôi” cay đắng ngạo trời của Duyên Anh nhập vào “cái ta” bất đắc chí của những người mà tên họ đã theo cùng năm tháng mà lớn lên, không bao giờ già

Chấp kích lang cừu khinh Hạng Võ

Đêm mong đợi kiếm báu Trương Lương.

(Bài ta -1987)

Hạng Võ “hữu dũng vô mưu” nên cuối cùng cũng không qua nổi nạn tự tử ở Ô Giang nhưng Trương Lương – Trương Tử Phòng đa mưu túc trí, cuối cùng rồi cũng “công thành danh thoái”! Gươm báu kia cũng chỉ có một thời! Duyên Anh tổng kết công trạng của những kẻ sĩ thời nào thất thế mà chẳng thế qua lối ẩn dụ sâu sắc:

Xác xơ chữ nghĩa gầy nghiên bút
Rượu ngút trời thiêu giấc bá vương.

Có thay bậc đổi ngôi đâu mà “giấc mộng Hòe” của Trương Sinh với giấc “bá vương” của Thành Cát Tư Hãn? Chẳng qua, tan giấc mộng con vì “lỡ đò”, vì “trễ tàu”, vì “sắt thép đau” – nỗi đau phế liệu văn chương mà thành. Mới nói: Rớt từ ngọn cây xuống đất, ai mà chẳng bị thương! Kẻ đeo theo giấc mơ quan trường, chính trường, thương trường, gặp thời thì “như diều gặp gió”, “hô phong hoán vũ”, “cỡi ngựa bắn cung” nhưng đến khi hết thời, “cỡi… kiến, lấy dây thun bắn ruồi” là thế! Ruồi cũng gian manh, bay lượn nhanh thì cũng chẳng làm sao mà bắn! Con ruồi khoái mật ngọt với “thớt có tanh tao ruồi mới đến, gan không mật mỡ, kiến bò chi” như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ví trong “thói đời”. Con người “thức thời vụ” còn như thế nào?

Trong tập: “Em, Ta, SàiGòn và Paris”, Duyên Anh đã nhìn thấy những “mộng cuồng” toan “mưu bá đồ vương” không thực lực trong “Bài lưu đày” năm 1987. Họ là những kẻ:

Học đòi Câu Tiễn nuôi thù hận
Chí lớn xem chừng cái móng tay
Răng rụng trống tung còn hám lợi
Thân lươn lãnh tụ đắm mưa lầy
Hư danh gạt gẫm phường khoa bảng
Nguyệt mộ khơi rồi chửa tỉnh say
Đeo mo mấy đứa buôn dân tộc
Cứu nước khom lưng trướng chủ thầy
Nỗi buồn quốc sỉ Lê Chiêu Thống
Gươm giáo Quang Trung có thở dài

Phải nói đây là một trong những bài thơ có giá trị liên thành về tư cách sống sao cho ra “Người”. Đọc lên những câu này, nếu chúng ném về phía nhóm người nào thì nhóm đó sẽ vì thẹn lòng mà thành ra thù hận. Việt Vương Câu Tiễn đã vì cái nhục bị giam ba năm ở Cối Kê bởi Phù Sai mà nuôi mộng trả thù. Không có Phạm Lãi, Văn Chủng thì cả đời Câu Tiễn chả làm được cái quái gì ngoài dùng “mỹ nhân kế” hiến một trong “tứ đại mỹ nhân” là Tây Thi cho Ngô vương Phù Sai. Anh hùng còn lắm chuyện để bàn luận, đánh giá (khi công thành thì quay ra giết kẻ đại thần như Câu Tiễn đã giết Văn Chủng. Lê Lợi giết Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn… triều đại nào mà chằng có “thỏ hết thì mạng chó săn chẳng còn”!) nhưng chí của Câu Tiễn quả đúng là chí của kẻ mưu đồ phục quốc. Chí của những kẻ bắt chước Câu Tiễn trong mắt Duyên Anh chỉ là “cái móng tay”! (Sao có nhiều Câu Tiễn quá, khi phục quốc thì Câu Tiễn nào sẽ làm vua? Vậy thì “Hán – Sở tranh hùng” lại dấy lên, “Tam quốc chí” lại sống dậy. Ai sung sướng? Ai khổ nạn?). Chí lớn như “cái móng tay” đó, người ta có thể khảy nó dễ dàng bằng một cái nhíp cắt! Vì sao? Nó bé nhỏ vì nó không chứa đựng một mối thù dân tộc mà chỉ là thù hận cá nhân, mất danh lợi và nó không có cái gan “Ngọa tân thường đảm” tức là “nếm mật nằm gai” như Câu Tiễn. Bọn người đó dưới đôi mắt của Duyên Anh là đồ tầm thường vì kẻ nuôi thù hận bằng “hư danh”, bằng “gạt gẫm”, bằng “khom lưng” không thực lực và chỉ là phường “mượn râu hùm run nhát khỉ” như Phan Văn Trị từng mắng Tôn Thọ Tường thì có gì mà trân quý, mà gọi là cái chí khí của “quân tử trả thù mười năm chưa muộn”? Vậy thì chẳng khác nào Lê Chiêu Thống thân còn lo chưa xong lại phải nhục nhã gọt đầu, đổi áo mà cầu cạnh Càn Long? Làm sao giống Nguyễn Ánh một tay gây dựng cơ đồ, chịu hèn ở Xiêm La? Bởi vậy mà “gươm giáo Quang Trung có thở dài”! Có gươm trung nhưng không có chủ tốt thì gươm báu cũng hoài! Ngựa Xích Thố không có Quan Công cỡi thì cũng phí! Mới nói: Nhìn thấu lẽ đời là Duyên Anh. Thấy sâu nghĩa dỏm của những kẻ cơ hội cũng chính là Duyên Anh. Người tầm cao thì khó kết giao với kẻ hạng bại. Thù hằn từ đấy mà ra! Mày không chết xuống địa ngục thì tao chẳng có đường lên thiên đàng. Duyên Anh bị đánh đến “tàn phế’ chính là cái chỗ “hơn người’ này! Xưa nay “vĩ nhân có ước mơ, phàm nhân chỉ ham muốn”, kẻ tiểu nhân toàn ra chiêu hèn hạ sau lưng là thế cả.


Tác giả “Điệu ru nước mắt” đã giã từ “Ảo vọng tuổi trẻ” ôm “Vết thù trên lưng ngựa hoang” với “Nước mắt lưng tròng” trong nỗi buồn “tàn phế”. Con người “Mơ thành người Quang Trung” luyến tiếc cái quá khứ “Ngày xưa còn bé” với “Tuổi 13”, “Ngựa chứng trên sân trường” để “Dấu chân sỏi đá” ngậm ngùi lê trên “Sa mạc tuổi trẻ” đã là cái bóng mờ. Người viết “Hoa Thiên Lý” mang cái bóng mờ với nỗi ngạo đời, đem “mộng cuồng” vào “Ánh lửa đêm tù”, trút đi cái “Nặng nợ giang hồ” trở thành “Con bò sữa gặm cỏ cháy”. Con bò sữa nay đã thành con bò già tránh xa “Bầy sư tử lãng mạn” hôm nào để “Về yêu hoa cúc”, lặng lẽ viết “Thư tình trên cát” chỉ một dòng thôi cho tình yêu “Cám ơn em đã yêu anh”. Tác giả “Em, Tôi, SàiGòn và Paris” lại là con người với những niềm riêng một đời dấu kín.

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Fri Oct 14, 2022 9:05 am

4. Duyên Anh: Với những niềm riêng

* Những niềm riêng cho quê hương.

“Quê hương” của Đỗ Trung Quân là “chùm khế ngọt là cầu tre nhỏ, là con diều biếc”. Quê hương của Hồ Dzếnh trong “Lũy tre xanh” là: “đê thắm, bướm vàng. Con sông be bé, cái làng xa xa”. Quê hương của Giang Nam “có chim, có bướm… có một phần xương thịt của em tôi”. Quê hương của Tế Hanh “Có con sông xanh biếc, nước gương trong xỏa tóc những hàng tre”.

Ai nhắc “quê hương” cũng nhớ những bài ca dao, những câu chuyện cổ tích. Người tha phương nhớ quê qua hình ảnh con sông. Hình ảnh ẩn dụ con sông chuyển tải những nghịch lý, những nghiệt ngã đời thường với Nguyễn Tất Nhiên là khúc hát đưa đò trong “Ninh khúc1”:

Sông kia nào biết vô thường

Từ khi nguyệt nọ là trăng giang hồ.

Hôm nay sông bỗng tình cờ

Hay ra mình đã đưa đò trăng tan.

Dòng sông của Thanh Tâm Tuyền là dấu hỏi đau đáu một kiếp người bất phùng thời:

Dò dẫm lối về đêm tối mịt

Sông xa núi thẳm quê nhà đâu?.

(Ngã trên núi Việt Hồng…)

Dòng sông trong những kẻ nhờ trăng người làm ngọn đèn soi bóng tổ quốc, mượn kỷ niệm để xa xót quê hương đều như thế đó. Duyên Anh nào có ngoại lệ gì! Quê hương của Duyên Anh trong “Nhớ cổ tích” đầy hình ảnh sinh động nhưng buồn da diết. Đó cũng đúng với dòng thơ cay đắng của Anh, đúng với con người của Anh ngập đầy xa xót:

Quê nhà mẹ có giàn thiên lý

Một dãi rấm hiền giữa nắng trưa.



Tiếng sáo diều ai làm nhạc đệm

Chống gươm con bọ ngựa mơ màng

Thấy chân cổ tích đi trên lá

Mặt nước hồn thơ bỗng xốn xang.

Hình ảnh “giàn thiên lý” kia không làm ta say mê bằng hình ảnh “con bọ ngựa chống gươm mơ màng”, câu chuyện cổ tích bỗng có “chân đi trên lá”, cái mặt nước cũng vì “xốn xang” mà làm thơ! Trời ạ! Mạch thơ này cũng là một nguồn cảm xúc vô tận về nội dung lẫn nghệ thuật cho những trái tim thơ hay cả những chuyên gia “mổ xẻ” thơ. Hình ảnh con diều bay lên thường phát ra một âm thanh kỳ lạ. Tôi thường thả diều giấy trắng học trò khi còn bé nên tôi quen với âm thanh này nhưng đủ hồn thơ lúc đó mà chuyển âm thanh con diều qua “Tiếng sáo diều” để làm “nhạc đệm” thì tôi chưa hề nghĩ đến. Có da diết với tuổi thơ và phải có cái Hồn thật là thơ mộng mới nghe được tiếng nhạc từ cánh diều kia. Một “Tiếng sáo thiên thai” của Phạm Duy đã đưa người ta bay lên mây. “Tiếng sáo Trương Chi ru hồn nàng Mỵ” qua dòng nhạc Văn Cao. Tức cảnh sinh tình. Tiếng “nhạc đệm” kia ra sao? Vui hay buồn? Xuân Diệu trong “Nguyệt Cầm” từng chạnh lòng: “Trăng Nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.”

Duyên Anh nghe tiếng “nhạc đệm” kia lại thấy con bọ ngựa. Có phải chàng võ sĩ ngựa trong “Dế mèm phiêu lưu ký” của Tô Hoài? Ta lại gặp đảo vị ngữ đi cùng nhân hóa để thấy cái hình ảnh “chống gươm” của “con bọ ngựa”- chàng trai đang sung sức – “mơ màng”. Đất nước thanh bình nên chàng mới chống gươm mơ màng như vậy chứ đánh nhau trời long đất lở thì “hồn nào hồn để đánh nhau, hồn nào hồn để vào đâu mơ màng” mà:

Thấy chân cổ tích đi trên lá
Mặt nước hồn thơ bỗng xốn xang.

Chao! Câu thơ đầy chất suy nghĩ với nhiều hình tượng. Cổ tích? Ngày xưa người ta thường đặt ra những câu chuyện, sự kiện, sự tích để lý giải nhiều vấn đề khác nhau nhằm mục đích “hướng thiện”. Cổ tích nằm trong bộ phận văn học dân gian đi với thần thoại, ca dao, tục ngữ từ xưa đến nay đã “ngon giấc” nay lại cựa mình (giật mình) có phải vì nghe tiếng sáo diều, một tiếng kêu cứu bằng âm điệu không phải ai cũng nghe và hiểu được? Cổ tích có chân đi nhẹ trên lá. Hình ảnh này sao mà “thanh thót”, “ý nghĩa” quá làm sao ta đủ ngôn từ diễn được hết cái ý tưởng cao siêu này?

Cổ tích cùng người xưa trở về để nhắc nhở cái gì, cảnh cáo cái gì mà “mặt nước hồn thơ bỗng xốn xang”? Vẫn giữ phép nghệ thuật như đã nói trên, thực ra, người làm thơ đâu có định dùng biện pháp tu từ gì mà họ chỉ viết theo mạch cảm xúc thôi. Mạch cảm xúc chứa nội dung chi phối các biện pháp tu từ. Trước đây, người ta đã cho học trò phân tích theo cách từ nghệ thuật sang nội dung thật không phải cách. Kiểm chứng lại bằng cách cho mình tự làm một bài thơ xem sao? Lập tức ý tưởng cảm xúc về cái gì định nói đó hình thành ngay câu thơ và bài thơ nhanh chậm tùy khả năng của mỗi người.

Ta có thể hình dung ra người “Người học trò và con chó đá” qua hình ảnh cổ tích đi về. Con chó đá vẫy đuôi và không vẫy đuôi có một nghĩa gì, ai cũng nhớ. Cổ tích đi về lại có hai nghĩa: Một, thời bình nên giữa người và vật không còn ranh giới khi nụ hôn của hoàng tử đặt lên môi “nàng công chúa ngủ trong lâu đài” đã hóa giải lời nguyền của bà phù thủy: Mọi vật sống dậy từ mấy trăm năm. Mấy trăm năm chỉ trong giấc mơ, một giấc ngủ. Loài người sống được đến bao lâu để vào cổ tích? Con bọ ngựa mơ màng cũng phải. Hãy tự chui vào cổ tích đi để thấy rõ hai mặt thiện và ác của người. Hai thời loạn lạc trái-phải, bất phân; giỏi-dở khó định; ma-người lẫn lộn; hiền-ác không tường. Cho nên, cổ tích phải đi làm công việc của nó: Phân xử và sàn lọc; ban thưởng và luận tội. Cổ tích không thiên vị, không tham lam, dĩ nhiên, xử án giữa “thanh thiên bạch nhật” nếu “vua phạm pháp cũng trị tội như thứ dân”. Chao! Những thứ đó cũng chỉ còn trong… cổ tích! Vậy, cổ cổ tích của Duyên Anh vừa là cứu cánh, vừa cũng là hư ảo không có thật bao giờ đến nổi Anh than với dòng thơ của Anh:

Và những chuyện nghe xong,chẳng khóc
Chẳng buồn và chẳng thiết yêu ai.
Đời hiếm hoi những lần Bụt hiện
Nên chi đoạn kết thảm vô cùng!

Có phải Duyên Anh đã “khô cạn” cảm xúc, trơ lòng với những mối dây ràng buộc qua “chẳng khóc, chẳng buồn, chẳng thiết” như một cách “phủi tay” và kèm một tiếng thở dài? “Bụt” chỉ có ở trong cổ tích “Tấm Cám”, “Cây tre trăm đốt”. Bà tiên chỉ có trong cổ tích “Cô gái nhà nghèo”, “Cô bé lọ lem”. Cuộc đời không là cổ tích nhưng mà lại có lắm Lý Thông “nên chi đoạn kết thảm vô cùng”. “Những lần Bụt hiện” là công lý nhưng “đời hiếm hoi những lần Bụt hiện” tức là công lý nằm ở nơi đâu đâu…Nói trắng ra: Mẹ kiếp! Ở hiền chẳng gặp lành, kẻ gieo gió chẳng bao giờ gặp bão! Người ta “đờ” ra, vô cảm vì thất vọng. Tâm trạng “chẳng khóc, chẳng buồn, chẳng thiết” kia thật ra là “tha thiết” lắm! Ôm nỗi uất lòng, nghẹn đắng không nói được mới là “tâm bệnh”. Khi người ta bức xúc quá, đừng nên đè nén trong lòng mà hãy tìm một chỗ… trút hết đi bằng mọi cách mà cách tốt nhất là “hét thật to” cho sập trời cũng được!

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by LDN Fri Oct 14, 2022 10:17 am

Duyên Anh không chịu hét to mà âm ỉ “nuốt vào lòng” để buông ra một sự vô cảm cũng chỉ bắt nguồn từ cái “từ chối hiện thực” mà thôi! Bởi vậy, mặt nước vô hồn bỗng chốc lênh láng, hồn thơ xốn xang. Người và cảnh vật đã nhập lại làm một loại hình văn học khác: Hình thức ngụ ngôn mà J. La Fontaine đang giữ vị trí số một trên thế giới. Thơ Duyên Anh lẫn vào những dòng sông thơ khác và đã tự nổi lên với cái “phao ngụ ngôn” này và ta thử nghĩ: nếu ai không gặp cái “kết cục thảm” như Anh thì làm sao mà có được chất “ngụ ngôn” đầy ẩn ý, đầy ngụ tình như vậy? Do đó, có thể nói “con người và thời đại, con người và tác phẩm, tác phẩm với thời đại và con người” là cái kiềng ba chân để đánh giá một tác giả. Dòng thơ cho quê hương qua cổ tích của Duyên Anh với ngụ ngôn não nề để lại một kết cục bi thảm mà sự bi thảm đó chính là sự “hy sinh có một ước mơ”:

Kẻ đốt giải lời thề kết tóc

Người tan thành giọt lệ lưu ly.

(Nhớ cổ tích)

Đỗ Trung Quân trong “Chuyện ngày thường” cũng nhận ra “cuộc đời hệt như là cổ tích” như Duyên Anh. Cổ tích trong Duyên Anh là hình ảnh một Thạch Sanh ôm đàn để tiếng:

Nhạc xuyên qua đất buồn qua lá

Thành gió thành mưa phá điện vàng.

Thạch Sanh trong cổ tích với tiếng đàn “tích tịch tình tang, ai đem công chúa lên thang mà về” than thở số phận, còn Thạch Sanh của Duyên Anh không đơn giản như vậy mà tiếng đàn phát ra tiếng nhạc “xuyên” qua đất, qua lá thành gió, mưa công “phá” điện vàng biểu tưởng của một chế độ, một vương triều! Ta có thể so sánh tiếng đàn Duyên Anh với cái “cán bút”, “vần thơ” xưa như trái đất của Chế Lan Viên khi chàng ta muốn:

Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ

Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền

Với Duyên Anh: Nhạc chuyển thành gió mưa phá điện vàng. Với Chế Lan Viên: Bút trở thành đòn xoay chế độ. Thơ trở thành bom đạn phá cường quyền. Sự công phá của Duyên Anh là sự công phá trong cổ tích nên thơ Duyên Anh đọc lên âm hưởng “hiền lành” hơn với những dòng chữ “buồn như lá”. Hơi thơ không có sức mạnh đằng sau “truyền công lực” nên đầy nỗi cô đơn làm cho đất trời động lòng, khiến cho “gió, mưa” trợ giúp bởi tiếng nhạc kia có “hồn”, thần kỳquá! Trong khi đó, sự công phá họ Chế là sự công phá của đời thường như một “nguyên soái” vâng lệnh vua ra trận nên giọng thơ có sự “truyền công lực” đằng sau mà trở nên “mạnh mẽ”, không nói là “lên gân, lên dây cót”!

Ta tự hỏi nếu Duyên Anh được “dùng cán bút”, “dùng vần thơ”, Duyên Anh sẽ làm gì cho chế độ mới đây khi được “lột xác”, “đổi đời” như Chế Lan Viên và biết bao người từ chế độ này chuyển sang phục vụ cho một chết độ khác đối nghịch? Nếu giữ đúng ranh giới và “chúa ai người nấy thờ” thì ta chẳng có một Nguyễn Du. Chính vì vậy (có sức mạnh đằng sau và không có) mà hai cây bút, một người tha hồ vùng vẫy, một kẻ nép mình đắng cay với tiếng đàn Thạch Sanh trong cổ tích mơ “chém chằn tinh, giết đại bàng” phá cung điện trong… cổ tích. Cái bi thảm đó chính là sự “hy sinh” có một ước mơ”:

Kẻ tốt giải lời thề kết tóc

Người tan thành giọt lệ lưu ly

(Nhớ cổ tích).

Thạch Sanh trong thơ Duyên Anh gói gọn:

Lên đời sừng sững kiêu sang
Thơ châu báu với nhạc vàng ôm nhau
Thả hồn ngất đỉnh trời cao
Nỗi đau hang lấp xôn xao cuộc đời
(Thạch Sanh).

Cổ tích của Duyên Anh còn là những giọt nước mắt:

Nước mắt đầm đìa thương Cúc Hoa

Mừng cho cái Tấm nhờ ơn Phật

Khổ trước rồi sau hết xót xa


Last edited by LDN on Sat Oct 15, 2022 11:10 am; edited 1 time in total

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty DELETE@

Post by LDN Fri Oct 14, 2022 10:17 am

Duyên Anh không chịu hét to mà âm ỉ “nuốt vào lòng” để buông ra một sự vô cảm cũng chỉ bắt nguồn từ cái “từ chối hiện thực” mà thôi! Bởi vậy, mặt nước vô hồn bỗng chốc lênh láng, hồn thơ xốn xang. Người và cảnh vật đã nhập lại làm một loại hình văn học khác: Hình thức ngụ ngôn mà J. La Fontaine đang giữ vị trí số một trên thế giới. Thơ Duyên Anh lẫn vào những dòng sông thơ khác và đã tự nổi lên với cái “phao ngụ ngôn” này và ta thử nghĩ: nếu ai không gặp cái “kết cục thảm” như Anh thì làm sao mà có được chất “ngụ ngôn” đầy ẩn ý, đầy ngụ tình như vậy? Do đó, có thể nói “con người và thời đại, con người và tác phẩm, tác phẩm với thời đại và con người” là cái kiềng ba chân để đánh giá một tác giả. Dòng thơ cho quê hương qua cổ tích của Duyên Anh với ngụ ngôn não nề để lại một kết cục bi thảm mà sự bi thảm đó chính là sự “hy sinh có một ước mơ”:

Kẻ đốt giải lời thề kết tóc

Người tan thành giọt lệ lưu ly.

(Nhớ cổ tích)

Đỗ Trung Quân trong “Chuyện ngày thường” cũng nhận ra “cuộc đời hệt như là cổ tích” như Duyên Anh. Cổ tích trong Duyên Anh là hình ảnh một Thạch Sanh ôm đàn để tiếng:

Nhạc xuyên qua đất buồn qua lá

Thành gió thành mưa phá điện vàng.

Thạch Sanh trong cổ tích với tiếng đàn “tích tịch tình tang, ai đem công chúa lên thang mà về” than thở số phận, còn Thạch Sanh của Duyên Anh không đơn giản như vậy mà tiếng đàn phát ra tiếng nhạc “xuyên” qua đất, qua lá thành gió, mưa công “phá” điện vàng biểu tưởng của một chế độ, một vương triều! Ta có thể so sánh tiếng đàn Duyên Anh với cái “cán bút”, “vần thơ” xưa như trái đất của Chế Lan Viên khi chàng ta muốn:

Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ

Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền

_________________
~ bài viết về Sách:

https://www.nhomcho.com/t25736-sach
LDN

LDN


Back to top Go down

Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông  Empty Re: Nhà văn Duyên Anh và sự cố cuối đời của ông

Post by Sponsored content



Sponsored content


Back to top Go down

Page 1 of 2 1, 2  Next

View previous topic View next topic Back to top

- Similar topics

Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum