Our forum runs best with JavaScript enabled !

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6

View previous topic View next topic Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Empty Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6

Post by trangd Wed Oct 19, 2022 8:39 pm

Chương 1.


Những tia nắng hạ vàng tươi sưởi ấm các con đường đá cuội của Rome trong lúc hồng y Rodrigo Borgia rảo bước từ Vatican đến căn nhà trát vữa ba tầng trên quảng trường Merlo, nơi ông sẽ đến đòi ba đứa con ruột thịt của mình: hai cậu trai Cesare, Juan và cô con gái Lucrezia. Vào ngày may mắn đó, người phó chưởng ấn của Giáo hoàng - nhân vật quyền lực thứ nhì trong Giáo hội Công giáo La Mã - cảm thấy mình được tràn ngập ơn phước.

Tại căn nhà của Vanozza Cattanei, mẹ bọn trẻ, ông vui vẻ huýt sáo. Là người con của Giáo hội ông bị cấm kết hôn, nhưng với tư cách là người phụng sự Chúa ông tin chắc rằng mình biết kế hoạch của Chúa Lòng Lành. Bởi Cha Trên Trời Cao đã chẳng tạo ra Eve để bổ sung cho Adam, ngay cả ở nơi Thiên Đàng đấy sao? Thế thì nơi mặt đất đầy phản trắc này với đầy những bất hạnh, người đàn ông lại chẳng càng cần đến sự an ủi của người đàn bà hay sao? Ông từng có ba đứa con khi hãy còn là một giám mục trẻ nhưng ba đứa con mà ông có sau này với Vanozza chiếm một vị trí đặc biệt trong trái tim ông. Dường như chúng thắp lên trong ông niềm đam mê tha thiết giống hệt mẹ chúng ngày nào. Và ngay cả giờ đây, tuy chúng hãy còn nhỏ dại, ông đã hình dung chúng đứng trên vai ông, tạo thành một người khổng lồ kì vĩ, trợ giúp ông thống nhất các lãnh thổ thuộc giáo triều và mở mang Giáo hội Công giáo La Mã vươn xa khắp thế giới.


Nhiều năm qua, bất kì khi nào ông đến thăm, bọn trẻ vẫn luôn gọi ông là Papa, chúng không thấy có chuyện gì “lấn cấn” giữa việc ông yêu thương, chăm lo cho chúng và việc ông trung thành với giáo triều. Chúng chẳng thấy có gì kì lạ về chuyện ông vừa là hồng y vừa là cha chúng. Bởi chính con trai và con gái của Giáo hoàng Innocent chẳng thường diễu hành qua các đường phố La Mã với nghi thức trọng thể trong những dịp lễ hội đấy sao?

Hồng y Rodrigo Borgia đã ăn ở với người tình Vanozza hơn mười năm rồi, và ông mỉm cười khi nghĩ rằng rất hiếm người phụ nữ nào từng mang lại cho ông niềm hào hứng phấn khích đến thế và khiến ông quan tâm lâu đến vậy. Không phải vì Vanozza là người phụ nữ duy nhất trong đời ông, bởi ông là một người chẳng kiêng kị món gì trong mọi lạc thú ở đời. Mà vì bà là người quan trọng nhất: trong mắt ông, bà vừa xinh đẹp lại vừa cực kì thông minh, là người mà ông có thể cùng đàm đạo đủ mọi chuyện từ cõi thượng giới đến chốn phàm trần. Bà vẫn thường cho ông lời tư vấn khôn ngoan, và đáp lại, ông là một người tình rộng lượng và một người cha rất mực cưng chiều con cái.

* * *

Vanozza đứng ở ngưỡng cửa và mỉm cười tỏ vẻ điềm nhiên trong lúc vẫy tay chào tạm biệt ba đứa con của bà.

Giờ đây, một trong những ưu điểm lớn nhất khi bước qua tuổi tứ tuần chính là việc bà hiểu rõ con người mang bộ hồng y kia. Bà biết ông ta có tham vọng cháy bỏng, một ngọn lửa nhiệt tình luôn hừng hực trong lòng không bao giờ tắt. Ông cũng có chiến lược quân sự nhằm giúp cho Giáo hội Công giáo La Mã mở rộng thế lực, những liên minh chính trị nhằm tăng cường sức mạnh và những minh ước sẽ củng cố địa vị và quyền lực của ông. Ông đã nói với bà về tất cả những chuyện ấy. Ý tưởng cứ thế dồn dập tràn qua tâm trí ông, tựa như viễn cảnh các đạo quân do ông chỉ huy rầm rập tiến bước qua những vùng đất mới. Ông có số mệnh trở thành một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc nhất của nhân loại và sự nghiệp của ông thăng tiến thì con cái bà đương nhiên cũng sẽ được thừa hưởng thành quả. Vanozza cố tự an ủi khi biết chắc rằng sẽ có một ngày, với tư cách là những người thừa kế hợp pháp của hồng y, con cái bà sẽ có đủ giàu sang, quyền lực và cơ hội thăng tiến. Thế nên bà mới bằng lòng cho chúng ra đi.


Giờ đây bà ôm chặt đứa con hãy còn quá bé bỏng, Jofre, đứa duy nhất còn lại với bà - còn quá thơ dại để bứt ra khỏi mẹ bởi bé vẫn còn đeo vú mẹ. Tuy thế rồi đến lượt nó, chẳng bao lâu nữa đâu, cũng sẽ phải rời xa bà. Đôi mắt nhung huyền của bà lấp lánh những giọt lệ khi bà trông theo những đứa con kia đang lìa xa. Chỉ mỗi Lucrezia một lần quay nhìn lại, còn hai đứa con trai chẳng một lần ngoái đầu.

Vanozza dõi theo hình bóng vị hồng y đang vươn tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của cậu con nhỏ Juan và bàn tay tí xíu của cô con gái mới ba tuổi, Lucrezia. Anh con cả, Cesare, bị cha bỏ lơ, lộ vẻ bối rối. Chuyện này hơi phiền đấy, nhưng rồi với thời gian Rodrigo sẽ hiểu con cái như bà đã hiểu thôi. Ngập ngừng, bà khép lại cánh cửa gỗ nặng nề trước nhà.

Mới đi mấy bước, Cesare, do giận lẫy, đẩy cậu em mạnh đến nỗi Juan tuột khỏi tay cha, lảo đảo và suýt ngã xuống đất. Hồng y kịp đỡ lấy cậu, rồi quay người lại và nói, “Này Cesare, sao con không nói cho cha biết con muốn gì, thay vì xô đẩy em như thế?”


Juan, kém anh một tuổi nhưng vóc người mảnh khảnh hơn nhiều so với Cesare bảy tuổi, cười khẩy với vẻ hãnh diện vì được cha bênh. Nhưng cu cậu còn chưa kịp thỏa thuê tự mãn, Cesare đã sấn đến và giẫm lên chân cậu một cú thật mạnh.

Juan đau quá, khóc ré lên.

Hồng y dùng bàn tay vạm vỡ của mình túm lấy lưng áo Cesare, nhấc bổng cậu lên khỏi mặt đường rải sỏi, và lắc mạnh đến nỗi mấy lọn tóc xoăn màu nâu đỏ rũ lòa xòa xuống mặt. Sau đó ông đặt cậu đứng xuống. Quỳ gối trước cậu con nhỏ, ánh mắt màu nâu của ông dịu lại. Ông hỏi, “Có chuyện gì vậy, Cesare? Chuyện gì làm con bất mãn đến thế?”

Ánh mắt cậu cả tối sầm lại và sắc nhọn hơn, rực lên như than hồng khi cậu trừng trừng nhìn cha. “Con ghét nó, Papa à,” cậu nói bằng giọng vô cảm. “Lúc nào Papa cũng bênh nó…”

“Này, này, Cesare,” hồng y nói, giọng đã trở lại vui vẻ. “Sức mạnh của một gia đình, cũng giống như sức mạnh của một đội quân, nằm ở lòng trung thành, gắn bó với nhau. Vả chăng, thù ghét chính anh em ruột thịt của mình là một trọng tội, và không có lí do gì để tự làm nguy hại đến linh hồn bất tử của con vì những cảm xúc sai lầm đó.” Giờ đây ông đứng thẳng người lên, cao vượt hơn hẳn chúng. Rồi ông mỉm cười trong lúc vỗ vào cái bụng đẫy đà của mình. “Chắc chắn là cha có đủ cho tất cả các con, đúng không nào?”

Rodrigo Borgia vốn người miền núi, vóc người cân đối, đẹp trai theo kiểu hơi thô ráp võ biền chứ không phải vẻ quý phái văn nhã. Đôi mắt sẫm màu của ông thường ánh lên vẻ tươi vui; mũi ông dù hơi to nhưng nhìn không thô; và đôi môi đầy nhục cảm thường tươi cười, tạo cho ông dáng dấp của một người độ lượng. Nhưng chính cái từ lực rất riêng của ông, cái khí lực vô hình tỏa ra từ con người ông, khiến cho mọi người nhất trí rằng ông là một trong những người đàn ông lôi cuốn nhất của thời đại mình.

“Chez, anh qua chỗ của em này,” cô con gái bấy giờ nói với Cesare, bằng một giọng trong trẻo đến nỗi khiến hồng y quay sang nhìn cô bé với vẻ thích thú. Lucrezia đứng thẳng người, hai cánh tay khoanh lại phía trước, những lọn tóc dài màu vàng xõa xuống đôi bờ vai, gương mặt thiên thần ánh lên vẻ cương quyết.


“Con gái yêu không muốn nắm tay cha sao?” Hồng y hỏi cô bé, vừa làm bộ bĩu môi.

“Không được nắm tay cha con cũng không khóc đâu,” cô bé nói. “Và chuyện đó cũng không làm con hờn giận.”

“Crezia,” Cesare âu yếm nói, “đừng có cứng đầu như thế. Juan còn bé lắm, chỉ biết cho phần nó thôi.” Cậu cả trừng mắt nhìn em trai vẻ coi thường, cậu thứ liền lau nước mắt vào cánh tay áo lụa mềm.

Hồng y dịu dàng vuốt mớ tóc đen của Juan và dỗ dành cậu. “Đừng khóc nữa. Con hãy nắm tay cha này.” Ông quay sang Cesare và nói, “Này, chàng chiến binh nhỏ, con có thể nắm tay kia của cha.” Sau đó ông nhìn Lucrezia và toét miệng cười với cô. “Còn cô này, con gái yêu của cha thì sao? Papa sẽ làm gì với con nhỉ?”

Cô bé vẫn tỏ vẻ bình thản, sắc mặt không đổi nên hồng y rất thích chí. Ông mỉm cười tỏ ý khen ngợi. “Thế mới đúng là con gái của cha chứ! Và để thưởng cho sự hào hiệp và dũng cảm của con, cha đặt con vào chỗ ngồi danh dự nhé?”

Rodrigo Borgia cúi thật thấp người xuống và nhấc bổng cô bé đặt lên vai ông. Rồi ông phá lên cười sảng khoái. Giờ đây, khi ông bước đi, trang phục thanh lịch lả lướt buông, cô bé trông giống như một vương miện khác, mới và thật đẹp trên đầu ngài hồng y.

* * *

Cùng ngày đó, Rodrigo Borgia chuyển các con mình về lâu đài Orsini, đối diện lâu đài riêng của ông ở Vatican. Bà em họ góa chồng của ông, Adriana Orsini, vừa chăm sóc vừa dạy dỗ chúng. Khi cậu con trai của Adriana, Orso, mới mười ba tuổi, đính hôn với Julia Farnese, mười lăm tuổi, cô gái này chuyển vào ở trong lâu đài để giúp Adriana chăm sóc mấy đứa bé.

Mặc dù hồng y chu toàn trách nhiệm hằng ngày đối với các con, nhưng chúng vẫn thường về thăm mẹ, giờ đây đã gả cho người chồng thứ ba, Carlo Canale. Vì ông biết rằng một quả phụ phải có một tấm chồng để che chở, giúp giữ gìn thanh danh cho một gia đình nền nếp, nên cũng giống như hai lần chọn chồng trước cho Vanozza, lần này ông chọn Canale. Hồng y đã đối xử tốt với bà, và những gì bà không nhận được từ ông thì bà lại được hưởng từ hai đời chồng trước. Không giống như những nàng kĩ nữ của giới quý tộc tuy đẹp nhưng đầu óc trống rỗng, Vanozza là một người đàn bà có đầu óc thực tế mà Rodrigo đem lòng ngưỡng mộ. Bà sở hữu nhiều hàng quán khang trang, và một thái ấp đem lại cho bà khoản thu nhập thường niên đáng kể. Là một phụ nữ mộ đạo, bà đã cho xây một nhà nguyện phụng hiến Đức Mẹ, ở đó bà đều đặn đọc kinh hằng ngày.

Tuy nhiên, sau mười năm dài thì lòng say mê lẫn nhau cũng nguội lạnh dần và họ trở thành những người bạn tốt.

Chỉ trong vòng mấy tuần lễ, Vanozza buộc phải để cho đứa bé nhất, Jofre, đến sống cùng với các anh chị nó, vì không có các anh chị thằng bé cứ quấy khóc không dỗ được. Và thế là cả bốn đứa con của Rodrigo Borgia lại chung sống với nhau dưới sự chăm sóc của bà cô góa chồng.

Mấy năm sau đó, để xứng với thân phận là con cái của một hồng y, chúng được những gia sư tài ba nhất ở thành Rome dạy dỗ, được học các môn như nhân văn học, thiên văn học, chiêm tinh học, lịch sử cổ đại, nhiều ngôn ngữ bao gồm tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Anh và tất nhiên cả ngôn ngữ của nhà thờ, tiếng La-tinh. Cesare luôn vượt trội vì trí thông minh và bản chất thích ganh đua, nhưng chính Lucrezia lại tỏ ra nhiều triển vọng nhất vì trên hết, nàng có tính cách mạnh mẽ và đức hạnh thực sự.

Mặc dù nhiều thiếu nữ được gửi đến các tu viện để được giáo dục và hiến mình theo con đường thánh hạnh, nhưng Lucrezia - với sự cho phép của hồng y, theo lời khuyên của Adriana - lại hiến mình cho thi ca và cũng được những gia sư tài ba dạy dỗ như các anh em nàng. Vì yêu thích các môn nghệ thuật, nàng học chơi đàn lute, khiêu vũ và vẽ. Tài thêu thùa của nàng thật xuất chúng, đặc biệt trên những tấm vải bằng sợi vàng, sợi bạc.

Là nghĩa vụ, Lucrezia luôn bồi đắp vẻ duyên dáng và tài năng vốn sẽ làm tăng giá trị của nàng trong những cuộc hôn phối phục vụ cho quyền lợi của gia đình Borgia về sau này. Một trong những thú vui nàng thích nhất là làm thơ và nàng dành nhiều thời gian cho những vần thơ về tình yêu và lòng mến Chúa, cũng như thơ về tình yêu lãng mạn. Nàng có rất nhiều thi hứng từ các vị thánh, trái tim nàng thường ngập tràn xúc cảm không nói hết được bằng lời.

Julia Farnese cưng chiều Lucrezia như một cô em bé bỏng, cả Adriana và hồng y đều rất mực chiều chuộng Lucrezia, và như thế nàng trở thành một bé gái hạnh phúc tính tình cởi mở. Hiếu kì và dễ làm thân, nàng không thích sự bất hòa và luôn cố gắng để giữ cho gia đình hòa thuận, êm ấm.

* * *

Một ngày chủ nhật đẹp trời, sau khi đã cử hành Lễ Trọng ở Vương cung Giáo đường Thánh Peter, hồng y Borgia cho gọi các con đến gặp ông ở Vatican. Đây là một hành vi dũng cảm hiếm có, bởi cho đến thời Giáo hoàng Innocent, con cái của giới tăng lữ đều được tuyên bố là cháu trai hay cháu gái họ. Công khai thừa nhận quan hệ cha con có thể gây nguy hại cho việc bổ nhiệm vào các chức vụ cao trong Giáo hội. Tất nhiên là bàn dân thiên hạ đều biết rằng các vị hồng y và ngay cả đức Giáo hoàng cũng có con cái - ai cũng biết họ phạm lỗi xác thịt - nhưng miễn là chuyện đó còn được giấu dưới cái vỏ “gia đình” và sự thật về mối quan hệ chỉ được ghi trong những tấm giấy da dê bí mật, thì danh dự của nhà thờ vẫn không bị hoen ố. Mọi người cứ việc tin điều họ muốn, nhưng hồng y Borgia không mấy mặn mà với thói ngụy biện. Tất nhiên, vẫn có những lúc chính ông cũng bị buộc phải biến cải hay tô hồng sự thật. Chuyện này cũng dễ hiểu thôi, bởi dù sao ông cũng là một nhà ngoại giao mà.

Vào dịp đặc biệt này, Adriana diện cho các cô cậu những bộ trang phục đẹp nhất: Cesare mặc đồ xa-tanh đen còn Juan mặc đồ lụa trắng, Jofre được mặc thêm áo ngoài bằng nhung xanh thêu hoa văn sặc sỡ. Julia diện cho Lucrezia một chiếc áo dài hoa đào viền đăng-ten và cài một món nữ trang nhỏ nạm ngọc lên những lọn tóc vàng của cô bé.

* * *

Hồng y vừa đọc xong một tư liệu chính thức do viên cố vấn trưởng của ngài, Duarte Brandao, mang về từ Florence. Tư liệu nói về một tu sĩ dòng Đa-minh có tên là Savonarola. Thiên hạ đồn rằng ông ta là một ngôn sứ được Thánh Linh truyền linh hứng, nhưng người này cực kì nguy hiểm cho những mục tiêu của hồng y vì mọi thường dân của Florence đều đổ xô đến nghe những bài thuyết giáo của Savonarola và nhiệt tình hưởng ứng. Ông ta được dân chúng tôn là nhà tiên tri và là một nhà thuyết giáo có tài hùng biện mà những diễn ngôn nảy lửa thường tuôn tràn nộ khí chống lại thói hoang đàng xác thịt và tiền của nơi giáo triều ở Rome.

“Chúng ta phải theo dõi sát sao lão tu sĩ ngu ngốc này,” Rodrigo Borgia phán. “Vì bao triều đại hùng cường vẫn thường bị đổ nhào bởi những kẻ ngu dại tin rằng chúng nắm được chân lí thiêng liêng.”

Brandao người dong dỏng cao, tóc đen dài với những đường nét thanh tú. Ông ta có vẻ dịu dàng và dễ mến, thế nhưng ở Rome, thiên hạ vẫn đồn rằng khi vấp phải sự phản bội hay hỗn xược, cơn thịnh nộ của ông ta kinh khủng không gì sánh nổi. Mọi người nhất trí rằng chỉ có thằng điên mới cả gan làm kẻ thù của ông ta. Bấy giờ, Duarte vừa vuốt bộ ria bằng ngón trỏ vừa nghiền ngẫm những ẩn ý mà Rodrigo Borgia vừa nói với mình.

Duarte trình với hồng y, “Người ta bảo rằng lão tu sĩ này công kích cả nhà Medici từ giảng tòa và người dân xứ Florence reo hò tán thưởng lão.”

Khi mấy đứa bé đi vào phòng riêng của Rodrigo Borgia, cuộc đàm đạo tạm ngưng. Duarte Brandao mỉm cười chào bọn trẻ, rồi đứng qua một bên.

Lucrezia phấn khích sà vào vòng tay hồng y, trong khi hai cậu con trai đứng phía sau, tay chắp sau lưng. “Đến đây, các con,” Rodrigo nói, vẫn còn ôm cô con gái trong vòng tay. “Lại đây hôn Papa đi nào.” Ông vẫy tay cho chúng tiến về phía mình với một nụ cười ấm áp và chào đón.

Cesare đến chỗ cha trước. Rodrigo Borgia đặt Lucrezia xuống chiếc ghế đẩu nhỏ dát vàng kế bên chân ông, rồi ôm lấy con trai. Cậu là một bé trai khỏe mạnh, cao và rắn rỏi. Ông bố thích cảm giác tiếp xúc với đứa con trai này; nó khiến ông an tâm về tiền đồ của cậu. Rodrigo nới lỏng vòng ôm cậu con rồi duỗi tay, đẩy nhẹ cậu ra để ông có thể nhìn cậu. “Cesare,” ông trìu mến nói, “Hằng ngày ta vẫn thường đọc kinh tạ ơn Thánh Mẫu của chúng ta bởi con làm lòng ta tràn ngập niềm vui mỗi lần ta nhìn ngắm con.” Cesare mỉm cười sung sướng, hài lòng với lời tán dương của cha.

Sau đó Cesare xê dịch sang một bên để nhường chỗ cho Juan. Có thể là do nhịp tim đập nhanh của cậu con thứ khi áp vào ngực mình, có thể là hơi thở gấp gáp của cậu biểu lộ sự bối rối nhưng phần nào đó nơi Rodrigo cảm thông với sự yếu ớt của Juan. Và khi hồng y ôm đứa con này, ông siết nhẹ hơn nhưng giữ cậu lâu hơn.

Thông thường khi hồng y dùng bữa một mình trong phòng, ông ăn khá đạm bạc, chỉ có bánh mì, hoa quả, phô-mai. Nhưng vào ngày đó ông đã bảo những người hầu dọn lên bàn ăn một bữa thịnh soạn với đủ loại pasta cùng các món gà, vịt, bò, bánh kẹo và rất nhiều mứt hạt dẻ.

Nhìn thấy đám con mình, cùng với Adriana và cậu con trai Orso, cô nàng Julia Farnese xinh đẹp duyên dáng ngồi quanh bàn ăn cười nói vui vẻ, Rodrigo Borgia cảm thấy mình quả là một người may mắn. Với gia đình và bạn bè quây quần bên nhau, cuộc sống nơi trần gian cũng vui quá đấy chứ! Ông thầm đọc một bài kinh tạ ơn. Khi người hầu rót loại rượu đỏ tươi màu máu vào chiếc cốc bạc cho ông, lòng ông tràn ngập thiện ý. Và thế là ông âu yếm cho cậu con Juan, ngồi kế bên ông, được thưởng thức ngụm rượu đầu tiên.

Nhưng Juan vừa mới uống ngụm rượu đã nhăn mặt. “Đắng quá, Papa à,” cậu nói. “Con không muốn uống đâu.”

Rodrigo Borgia, lúc nào cũng cảnh giác, bỗng nhiên lạnh người vì sợ hãi. Đây là rượu ngọt mà, không thể nào có vị đắng…

Gần như tức thì thằng bé kêu buồn nôn và gập người vì những cơn đau quặn bụng. Cả hai người, ông bố và cô Adriana cố gắng trấn an cậu bé, nhưng chỉ một lát sau Juan bắt đầu nôn mửa dữ dội. Hồng y bế cậu lên khỏi chỗ ngồi, đưa vào một tiền sảnh và đặt cậu xuống chiếc đi-văng có nệm thêu kim tuyến.

Thầy thuốc ở Vatican được gọi đến ngay, nhưng ông ta chưa kịp vào phòng thì Juan đã bất tỉnh.

“Thuốc độc,” vị thầy thuốc tuyên bố sau khi khám cậu bé.

Juan trắng bệch như xác chết và đã lên cơn sốt giật, một dòng mật đen chảy ra khỏi môi. Trông cậu thật bé bỏng và vô vọng.

Lúc bấy giờ Rodrigo Borgia không còn giữ được tư thế uy nghiêm đạo mạo như thường thấy nữa. Ông giận dữ nói, “Một liều thuốc độc nhắm vào ta…”

Duarte Brandao, nãy giờ vẫn đứng cạnh bên, bèn rút kiếm ra, cảnh giác và theo dõi xem có âm mưu nào nữa nhằm làm hại hồng y và gia đình ngài hay không.

Hồng y quay sang Duarte ra lệnh, “Có kẻ thù bên trong lâu đài này. Tập họp mọi người nơi Sảnh Chính. Rót cho họ mỗi người một cốc rượu và nhấn mạnh rằng ai cũng phải uống. Sau đó dẫn kẻ nào không chịu uống đến cho ta.”

Adriana thì thầm đầy lo lắng, “Thưa đức ông, ngài giận là phải, nhưng làm như thế ngài sẽ mất những gia nhân thân tín nhất vì nhiều người sẽ ốm và có người sẽ chết…”

Rodrigo quay sang bà. “Ta sẽ không bắt chúng uống thứ rượu mà đứa con vô tội của ta vừa mới uống phải đâu. Chúng sẽ uống loại rượu bình thường thôi. Nhưng kẻ thủ ác sẽ từ chối uống vì nỗi sợ hãi sẽ làm hắn hoảng hốt trước khi nâng chiếc cốc lên môi.”

Duarte lập tức rời khỏi để thi hành lệnh của hồng y.

Juan nằm cứng đờ người như đá, nhợt nhạt như xác chết. Adriana, Julia và Lucrezia ngồi bên cạnh, lau trán cậu bằng khăn ướt và các loại dầu trị bệnh.

Hồng y Rodrigo Borgia cầm bàn tay nhỏ bé của con lên, hôn vào đó; rồi ông đi đến nhà nguyện riêng và quỳ trước tượng Thánh Mẫu để cầu nguyện. Ông trần tình với Đức Mẹ vì ông biết Người hiểu nỗi đau mất con lớn lao đến nhường nào. Và ông khấn nguyện, “Con sẽ làm mọi điều trong sức mình, mọi điều trong tầm tay con người để mang hàng vạn linh hồn về với Giáo hội chân chính duy nhất trên thế gian này, Giáo hội của Người, hỡi Đức Mẹ Thiêng Liêng. Con sẽ chăm lo sao cho chúng thờ phụng con của Người, nếu phải chi Người giành lại mạng sống cho con của con…”

Cậu cả Cesare đứng ở ô cửa nhà nguyện và khi hồng y quay lại, ông thấy cậu rơm rớm nước mắt. “Lại đây, Cesare. Lại đây, con của ta. Hãy cầu nguyện cho em con,” hồng y nói. Cesare đi đến quỳ xuống bên cạnh cha.

* * *

Quay trở lại phòng của hồng y, mọi người ngồi trong yên lặng cho đến khi Duarte quay về và thông báo, “Đã tìm ra thủ phạm. Nó là thằng nhỏ phụ bếp trước kia phục dịch cho nhà Rimini.”

Rimini là một lãnh địa nhỏ trên bờ biển phía đông đất Ý, dưới quyền cai trị của công tước Gaspare Malatesta vốn là một địch thủ đáng gờm của Rome và giáo triều, ông ta là một người khổng lồ với thân hình ngoại khổ bằng cả hai người, khuôn mặt thô ráp bị sẹo rỗ, nhưng chính cái đầu tóc đỏ rực và xoăn lên man dại mang lại cho ông ta cái biệt danh “Sư tử”.

Hồng y Borgia rời khỏi đứa con đang đau đớn và thì thầm với Duarte, “Hãy tra hỏi thằng nhỏ đó tại sao nó lại xúc phạm đức ông như thế. Rồi bắt nó uống chai rượu trên bàn chúng ta, uống cho kì hết.”

Duarte gật đầu. “Và đức ông muốn chúng tôi làm gì nó một khi rượu đã phát huy tác dụng?”

Hồng y, đôi mắt long lanh, mặt đỏ bừng, ra lệnh, “Trói nó thật chặt vào lưng lừa và tống đi cùng một thông điệp cho con Sư tử Rimini kia, bảo hắn hãy lo cầu nguyện và xin Chúa tha mọi tội lỗi của hắn đi.”

* * *

Juan nằm thiêm thiếp mê man như chìm trong giấc ngủ sâu suốt nhiều tuần lễ và hồng y kiên quyết để đứa bé ở trong cung điện của ông ở Vatican cho chính y sĩ riêng của mình chữa trị. Trong khi Adriana ngồi kế bên, còn các gia nhân lo chăm sóc cho nó, Rodrigo Borgia ngồi hàng giờ trong nhà nguyện để cầu xin Đức Mẹ. “Con sẽ mang về Giáo hội chân chính duy nhất hàng vạn linh hồn,” ông khấn hứa nhiệt thành, “nếu phải chi Mẹ cầu xin với Chúa Jesus tha cho mạng sống của con trai con.”

Khi những lời cầu xin của ông được đáp ứng, và Juan bình phục, hồng y càng tận tụy hơn với Giáo hội và với gia đình mình.

Nhưng Rodrigo Borgia biết rằng không thể thụ động phó thác sự an toàn của gia đình mình cho Chúa. Và ông hiểu cần phải thực hiện bước tiếp theo: phái người sang Tây Ban Nha để gọi Miguel Corello, còn được gọi là Don Michelotto, đến Rome.

* * *

Đứa cháu họ bặm trợn này của hồng y Rodrigo Borgia ngay từ nhỏ đã cảm nhận được vòng xoáy nghiệt ngã của số phận. Khi còn là một thiếu niên ở Valencia, cậu ta không hề ti tiện hay tàn ác chưa kể còn hay ra tay bảo vệ những con người mà lòng tốt khiến họ dễ bị tổn thương khi phải chạm trán với bản tính ưa bức hại của kẻ khác. Vì thường thì lòng tử tế lại bị nhầm lẫn là sự yêu đuối, nhu nhược.

Miguel ngay từ thời niên thiếu, đã chấp nhận định mệnh của mình: bảo vệ những ai mang ngọn đuốc của Chúa và của Giáo hội Công giáo La Mã đi soi sáng thế giới.

Nhưng Miguel là một chàng trai mạnh mẽ mà hành động và lòng trung thành đều đến mức cuồng bạo. Người ta kể rằng khi hãy còn là một thiếu niên cậu từng bị tên cướp hung bạo nhất trong làng tấn công lúc cậu đứng ra bảo vệ ngôi nhà của mẹ mình, vốn là chị của hồng y. Miguel lúc đó mới mười sáu tuổi, khi tên đầu đảng cướp cùng sáu, bảy tên lâu la xông vào nhà, cố giằng cậu ra khỏi cái hòm gỗ trong đó giấu những đồ thánh thiêng liêng quý giá của mẹ và những khăn áo của gia đình. Khi Miguel, vốn ít nói, chửi rủa bọn cướp và không chịu buông cái hòm, tên đầu đảng đã rạch mặt cậu bằng con dao nhọn, cắt từ khóe miệng lên đến hai gò má. Thấy máu chảy ròng ròng từ mặt cậu xuống ngực, mẹ cậu la hét kinh hoàng còn đứa em gái bật khóc nức nở - nhưng Miguel vẫn hiên ngang đứng yên.

Cuối cùng, hàng xóm chạy tới và bắt đầu la lên thì bọn cướp hoảng sợ, bỏ chạy khỏi làng để rút về hang ổ chúng trong rừng.

Vài ngày sau, khi đám cướp đó quay trở lại làng, chúng bị đánh trả quyết liệt và tên đầu đảng bị Miguel bắt được, còn hầu hết đều trốn thoát. Sáng ra, người ta thấy tên cướp bất hạnh kia bị buộc thừng quanh cổ, treo lủng lẳng trên một cành cây cao nơi sân làng.

Từ ngày đó trở đi, tiếng tăm dữ dằn của Miguel Corello lan truyền khắp xứ Valencia và không ai còn dám xúc phạm đến chàng ta hay bất kì ai trong gia đình hay bạn bè của chàng vì sợ đòn thù ghê gớm. Mặt chàng rồi cũng lành mặc dầu vết sẹo khiến miệng chàng luôn méo mó, nhưng ngoài ra chẳng bị tổn hại gì. Mặc dầu vết sẹo này, ở trên mặt bất kì ai cũng thành một hình ảnh đáng sợ nhưng tiếng tăm về lòng hào hiệp của Miguel và tia nhìn nhân từ toát ra từ đôi mắt nâu vàng khiến cho ai gặp chàng cũng nhận ra một tâm hồn lương thiện. Chính từ lúc đó mà dân làng bắt đầu mến mộ và gọi chàng bằng tôn hiệu Don Michelotto, và chàng nổi tiếng là một người đáng nể trọng.

Hồng y Rodrigo Borgia lập luận rằng trong mỗi gia đình phải có người đứng lên phía trước, trong vùng ánh sáng và rao giảng lời Chúa. Thế nhưng đằng sau nhân vật đó cần phải có những người khác chăm lo cho sự an toàn và bảo đảm thành công cho việc phụng sự thiêng liêng của người kia. Những người ngồi trên ngai của Giáo hội không thể tự bảo vệ mình khỏi cái xấu cái ác đến từ những kẻ khác mà không cần đến sự giúp đỡ từ một bàn tay trần tục, bởi bản chất của thế giới mà họ sống vốn là như thế.

Việc nhân vật trẻ tuổi Don Michelotto được triệu đến để đảm nhận vai trò kẻ trừng ác không làm bất kì ai ngạc nhiên bởi chàng ta là một mẫu người thượng đẳng. Tình yêu và lòng trung thành của chàng ta đối với Cha Trên Trời và Tông Tòa Thần Thánh chưa bao giờ bị nghi ngờ cho dầu bao nhiêu lời gièm pha vu khống về nhân cách của chàng do những kẻ thù xầm xì rỉ tai. Bởi Rodrigo Borgia tin chắc rằng Don Michelotto sẽ luôn luôn toàn tâm ý phục tùng ý chí của Cha Trên Trời và luôn nguyện hành động theo những mệnh lệnh của Giáo hội Đức Mẹ Thiêng Liêng.

Và giống như hồng y tin rằng những hành động của ông được dẫn dắt bởi ơn thiên khải, Don Michelotto tin rằng đôi tay chàng được dẫn dắt bởi cùng thiên lực đó và vì thế không có vấn đề tội lỗi. Bởi mỗi khi chàng làm tắt thở một kẻ thù của hồng y hay của Giáo hội thì chẳng phải chàng mang trả những linh hồn này về nhà mà chịu sự phán xét của Cha Trên Trời đấy sao?

Và thế là, không lâu sau khi Juan bình phục, Rodrigo Borgia, vốn sinh ra và lớn lên ở Valencia, biết rõ dòng máu chảy qua con tim anh chàng Tây Ban Nha này, đã gọi người cháu thân thiết của mình về Rome. Ý thức về những nguy cơ nơi đất khách quê người nên giờ đây ông phó thác sự an nguy của gia đình mình cho chàng trai Don Michelotto mới hai mươi mốt tuổi. Và trong thời gian những đứa con của hồng y lớn lên, hiếm khi nào chúng quay người nhìn quanh mà lại không thấy cái bóng của Don Michelotto bên cạnh.

Giờ đây bất kì khi nào hồng y ở Rome và những bổn phận của một phó chưởng ấn không buộc ông phải đi xa, hằng ngày ông đều đến thăm các con, nói chuyện và vui đùa với chúng, bên cạnh ông lúc nào cũng có Don Michelotto đi cùng. Và ngay khi có dịp, ông tranh thủ lánh khỏi cái nóng mùa hè gây ngầy ngật khó chịu của thành Rome, những con đường chật hẹp đông đúc, để mang con cái về chốn ẩn cư lộng lẫy của ông, một vùng quê trù phú xanh tươi.









Chương 2.



[size=19]Ẩn mình dưới chân những ngọn đồi của rặng Apennines, cách thành Rome một ngày đi ngựa là một vùng đất rộng với khu rừng tuyết tùng và thông tuyệt đẹp vây quanh hồ nước nhỏ trong xanh. Chú của Rodrigo Borgia, Giáo hoàng Calixtus III, đã tặng ông vùng đất này làm quà; trong mấy năm qua, ông đã xây dựng nó thành một chốn ẩn cư tráng lệ ở miền quê cho bản thân và gia đình.
Đây là Ngân Hồ, một chốn bồng lai tiên cảnh. Tràn ngập vô vàn âm thanh của thiên nhiên và bao sắc màu của tạo vật, nơi đây đã trở thành vườn địa đàng đối với ông. Từ rạng đông đến hoàng hôn, khi màu thiên thanh nhạt khỏi nền trời, mặt hồ chuyển sang sắc xám bạc. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên trông thấy nơi này, hồng y đã bị hút hồn. Ông hi vọng mình và con cái sẽ trải qua những khoảng thời gian hạnh phúc nhất ở đây.
Vào những ngày hè nắng vàng rực, mấy đứa bé tung tăng tắm mát trong hồ rồi chạy nhảy tưng bừng trên những cánh đồng xanh mướt cỏ hoa, trong khi hồng y dạo bước qua những vườn cam chanh ngát hương với tràng hạt bằng vàng trên tay. Suốt khoảng thời gian thanh bình đó, ông kinh ngạc xiết bao trước vẻ đẹp của cuộc sống và nhất là vẻ đẹp trong cuộc sống của ông. Dĩ nhiên, ông từng làm việc cật lực, đã khổ công quan tâm đến từng chi tiết ngay từ thời còn là một giám mục trẻ, nhưng điều đó quyết định đến hạnh vận của một người đến mức nào? Bởi có biết bao nhiêu kiếp người khốn khổ từng phải nhọc nhằn với bao nỗi gian truân thế nhưng chẳng được trời cao tưởng thưởng chút gì ở chốn hồng trần này đó sao? Lòng biết ơn tràn ngập hồn ông và hồng y ngước nhìn khoảng trời xanh trong kia, thì thầm lời nguyện cầu và xin ban phúc. Bởi ẩn dưới đức tin kia, sau bao nhiêu năm tháng hưởng thiên ân, lòng ông vẫn canh cánh nỗi kinh sợ rằng để có được một cuộc đời như thế này, một ngày kia ông phải trả cái giá rất đắt. Tất nhiên là Chúa rất hào phóng ban phát phúc lành, nhưng để xứng đáng dẫn dắt bao linh hồn về với Giáo hội Thần thánh thì cái thành khẩn phải được thử thách. Bởi còn cách nào khác để Cha Trên Trời phán xét một linh hồn có xứng đáng hay không? Hồng y hi vọng có thể chứng tỏ mình vượt qua được thử thách đó.



Một buổi tối nọ, sau khi cùng các con ăn một bữa thật ngon miệng bên bờ hồ, ông cho chúng thưởng thức một buổi bắn pháo hoa rực rỡ. Rodrigo bế bé Jofre trong tay còn Juan nắm chặt vạt áo của cha.
Những ngôi sao trắng bạc chiếu sáng bầu trời bằng các vòng cung khổng lồ sáng rực rồi tung thành bao dòng thác lấp lánh màu sắc tươi vui. Cesare nắm tay em gái, nhận ra con bé đang run rẩy, và khi tiếng thuốc súng nổ giòn, ánh sáng tuôn trào tỏa rực bầu trời, con bé hét ầm lên.
Khi hồng y thấy con gái sợ hãi, ông liền trao đứa bé cho Cesare và cúi xuống ôm Lucrezia. “Papa bế con đây,” ông dỗ dành. “Đừng sợ, Papa sẽ bảo vệ con.”
Cesare đứng sát vào cha, bế bé Jofre và lắng nghe cha giảng giải về các chòm sao bằng những cử chỉ uy nghi cùng giọng điệu hùng hồn. Cậu cảm thấy tiếng nói của cha là nguồn an ủi lớn lao đến độ cậu biết ngay rằng lần này ở Ngân Hồ là một khoảng thời gian mà cậu sẽ luôn trân trọng ghi nhớ trong lòng. Bởi trong đêm đó cậu là đứa bé hạnh phúc nhất trên đời và cậu chợt cảm thấy mọi chuyện đều khả thi.
* * *
Hồng y Rodrigo Borgia thích thú mọi điều mình làm. Ông là một trong số rất hiếm những người hăng say đến mức có thể cuốn mọi người xung quanh vào cơn lốc nhiệt tình của mình. Khi con cái trưởng thành hơn và sở học ngày càng tinh thông, ông bàn luận với chúng về tôn giáo, chính trị và triết học chuyên sâu hơn, dành hàng giờ giảng giải cho Cesare và Juan nghệ thuật ngoại giao, giá trị của chiến lược tôn giáo và chính trị. Cesare hào hứng với thú vui đầy tính trí thức này còn Juan lại thường tỏ ra ngán ngẩm. Do nỗi sợ từ tai nạn trước đây nên hồng y đã nuông chiều Juan đến độ làm hỏng nó, cậu con thứ trở nên dễ cáu kỉnh và hư đốn. Nhưng cậu con trai Cesare mới là người ông đặt hi vọng lớn nhất, thực sự ông rất kì vọng vào đứa con này.
Rodrigo hân thưởng những lần viếng thăm lâu đài Orsini, bởi vì cả hai người, cô em họ Adriana và cô cháu dâu trẻ trung Julia đều ngưỡng mộ và rất quan tâm đến ông. Julia đã trổ mã thành một thanh nữ rất xinh đẹp với mái tóc vàng tươi óng ánh hơn cả mái tóc của Lucrezia, dài gần chấm gót. Với đôi mắt xanh to tròn và đôi môi mọng, nàng xứng đáng với tên gọi La Bella (Mĩ nhân) được lưu truyền khắp thành Rome. Và vị hồng y bắt đầu cảm thấy một niềm yêu mến nào đó dành cho cô gái.



Julia Farnese xuất thân từ thành phần tiểu quý tộc và mang theo số của hồi môn ba trăm florin - một khoản kha khá - khi đính hôn với Orsini, vốn nhỏ hơn nàng vài tuổi. Trong khi những đứa con của Rodrigo luôn hạnh phúc khi gặp ông thì Julia cũng bắt đầu chờ mong những cuộc thăm viếng của ông. Ông xuất hiện làm nàng ửng hồng đôi má, giống như đa số những phụ nữ mà ông từng gặp trong đời. Thông thường, sau khi giúp Lucrezia gội đầu và vận những bộ quần áo đẹp nhất để đón cha, bản thân Julia cũng đặc biệt cố gắng làm cho mình trông hấp dẫn nhất. Rodrigo Borgia, mặc dù tuổi tác cách biệt, vẫn cảm thấy bị cô gái đương thì này mê hoặc.
Vì quý trọng người em họ Adriana và có cảm tình với cô dâu trẻ Julia Farnese nên khi sắp đến lễ cưới của đứa con đỡ đầu, Orso, ông tự đề xuất mình làm chủ lễ cho cuộc hôn phối của đôi trẻ tại Sảnh Sao của lâu đài ông.
Vào ngày đó, cô thanh nữ Julia mặc áo cưới bằng xa-tanh trắng với mạng choàng đính đầy những hạt ngọc trai màu bạc phủ trên khuôn mặt dịu dàng, ông thấy nàng dường như đã từ một bé gái biến thành giai nhân tuyệt thế mà ông chưa từng gặp trong đời. Mơn mởn, rạng ngời sức sống khiến đức hồng y phải cố kiềm chế không lộ vẻ si mê.



Chẳng bao lâu sau ngày cưới, chàng trai trẻ Orso được gửi đến nơi ẩn cư miền quê của hồng y ở Bassanello, cùng các vị cố vấn, và được huấn luyện để trở thành một chỉ huy quân đội. Còn nàng Julia Farnese rất sẵn lòng buông mình vào trong vòng tay của ngài hồng y và sau đó là trên giường của ngài.
* * *
Khi Cesare và Juan đến độ tuổi thiếu niên, cả hai được gửi đi xa để bắt đầu hoàn thành sứ mệnh của mình. Juan đánh vật với bài vở và hồng y nhận định rằng cuộc sống của một linh mục hay một học giả không phải là tương lai dành cho đứa con này. Thay vào đó, nó sẽ trở thành một chiến binh. Còn Cesare với trí thông minh đáng kinh ngạc đã đưa chàng đến với ngôi trường tại Perugia. Sau hai năm miệt mài kinh sử để nắm vững kiến thức các môn học mà chàng rất có năng khiếu, Cesare được gửi đến Đại học Pisa để nghiên cứu chuyên sâu hơn về thần học và giáo luật. Hồng y hi vọng Cesare sẽ đi theo bước chân ông và vươn lên vị trí trọng vọng trong Giáo hội.
Mặc dầu cũng làm tròn nghĩa vụ đối với ba đứa con trước với các nàng kĩ nữ, Rodrigo Borgia đặt hoài bão tương lai của mình vào những đứa con mà ông có với Vanozza: Cesare, Juan và Lucrezia. Đối với đứa con út Jofre, ông cảm thấy rất khó gần gũi. Và rồi để bào chữa cho sự thiếu sót đó trong tình phụ tử, ông bèn vận dụng lí luận để biện minh. Chính lúc đó ông mới quay ra tự hỏi chẳng hay cái thằng bé này có đích thực là con mình không. Bởi ai có thể thực sự biết được những bí mật ẩn giấu trong trái tim một người đàn bà?
* * *
Hồng y Borgia đã giữ chức phó chưởng ấn, tức luật sư của giáo triều, qua mấy đời Giáo hoàng. Ông đã phục vụ cho Giáo hoàng đang tại vị, Giáo hoàng Innocent, được tám năm, và trong thời gian đó, ông đã làm mọi chuyện khả thi nhằm tăng cường uy lực và tính chính thống của giáo triều.
Khi Giáo hoàng Innocent nằm hấp hối thì cả sữa mẹ tươi mát cho đến truyền máu từ ba bé trai cũng không cứu được mạng sống của ngài. Các em được trả công mỗi người một ducat, những khi thí nghiệm y khoa thất bại và dẫn đến tai họa, bọn trẻ được tưởng thưởng bằng những đám tang chu đáo và gia đình mỗi em được lãnh bốn mươi ducat.



Bất hạnh thay, Giáo hoàng Innocent đã để lại một ngân khố giáo triều trống rỗng và Giáo hội Thần thánh phải trần mình gánh chịu những lời xúc phạm của ông vua Tây Ban Nha theo Công giáo và ông vua Pháp sùng đạo. Tình trạng tài chính của giáo triều khốn đốn đến độ ngay cả bản thân Đức Thánh Cha cũng phải đem cầm cố chiếc mũ miện thiêng liêng của mình để có tiền mua những cành cọ đem phân phát trong ngày Chủ nhật Lễ Lá. Làm trái lại lời khuyên của hồng y Rodrigo Borgia, Giáo hoàng Innocent đã cho phép các vương công của Milan, Naples, Venice, Florence cùng các thành bang và thái ấp khác được trì hoãn cống nạp vào ngân khố của nhà thờ và bản thân ông đã phung phí tiền của để chuẩn bị những cuộc Thập tự chinh mà chẳng mấy người muốn mạo hiểm tham gia.
Chỉ một bộ óc bậc thầy về chiến lược và tài chính mới đủ khả năng trùng hưng Giáo hội Công giáo La Mã trở lại thời kì huy hoàng trước đây. Nhưng đó là ai? Mọi người băn khoăn tự hỏi. Tuy nhiên chỉ có Hồng y đoàn thiêng liêng, được Thánh Linh dẫn dắt và được cao xanh ban ơn linh hứng, mới có quyền quyết định. Bởi vì Giáo hoàng không thể là người thường mà phải là đấng được trời cao phái đến.
* * *
Ngày 6 tháng 8 năm 1492, trong Đại Sảnh của Nhà nguyện Sistine, với một toán Vệ binh Thụy Sĩ, các nhà quý tộc thành Rome và các vị sứ giả nước ngoài giúp ngăn chặn những kẻ xâm nhập, mật nghị của Hồng y đoàn bắt đầu thực hiện việc bầu chọn Giáo hoàng mới.
Theo truyền thống, ngay khi Giáo hoàng Innocent qua đời, tất cả các hồng y, hai mươi ba thành viên của Hồng y đoàn, tụ tập lại để bầu đấng Thần-nhân sẽ đóng vai trò là Người giữ chìa khóa, Người kế thừa Thánh Peter, Đại diện dưới thế của Chúa Jesus. Đó chẳng những là người lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo La Mã mà còn là người lãnh đạo các lãnh thổ thuộc giáo triều dưới trần gian. Để gánh vác trọng trách đó ông phải sở hữu trí thông minh ưu việt, tài lãnh đạo quân dân, khả năng giành lợi thế trong thương thuyết với những vương công trong xứ cũng như với các vua chúa nước ngoài.



Chiếc mũ miện thiêng liêng của Giáo hoàng mang theo triển vọng về những nguồn lợi lớn lao cũng như trách nhiệm thống nhất hay càng làm phân tán hơn cái tổ hợp những thành bang phong kiến vốn tạo thành trung tâm của bán đảo Ý. Và do đó, ngay cả trước khi Giáo hoàng Innocent băng hà, nhiều cuộc thương thảo đã diễn ra, tiền tài và tước vị đã được hứa hẹn, và một số cam kết trung thành đã được ngã giá nhằm bảo đảm phiếu bầu cho những hồng y nào đấy.
Trong nhóm ưu tuyển những hồng y được nhận định có thể trở thành giáo hoàng chỉ có một số ít là sáng giá: hồng y Ascanio Sforza ở Milan, hồng y Cibo của Venice, hồng y della Rovere của Naples, và hồng y Borgia của Valencia. Nhưng Rodrigo Borgia là một người nước ngoài - một người gốc Tây Ban Nha - và như thế cơ hội của ông có phần mong manh. Bất lợi lớn nhất của ông là bị coi là người Catalan. Và mặc dầu ông đã đổi tên mình từ “Borja” theo tiếng Tây Ban Nha sang “Borgia” theo tiếng Ý, những cựu tộc của thành Rome cũng chẳng vì thế mà ủng hộ ông hơn.
Tuy nhiên nhiều người trong Hồng y đoàn cũng thận trọng cân nhắc khi xét rằng ông đã phục vụ nhà thờ xuất sắc trong hơn ba mươi lăm năm. Với tư cách luật sư của giáo triều ông đã thương nghị nhiều tình huống ngoại giao khó khăn và đã khéo léo mang về lợi thế cho các đời Giáo hoàng trước đây mặc dầu với mỗi thắng lợi cho Vatican ông cũng tăng thêm của cải và lợi lộc cho gia đình mình. Ông đã đưa nhiều người thân vào những vị trí quyền lực và ban phát bổng lộc cho họ, những người mà nhiều thế gia cố cựu của nước Ý cảm thấy không tương xứng. Thế nên, một Giáo hoàng người Tây Ban Nha ư? Vô lí! Nơi ngự của Tông Tòa là ở Rome vậy thì Giáo hoàng phải là người từ một trong những thành bang trên bán đảo Ý cũng là chuyện hợp tình hợp lí thôi!
Giờ đây, được vây bọc trong bầu không khí huyền bí, mật nghị của Hồng y đoàn bắt đầu tiến hành công việc của Chúa. Được cách li trong những phòng nhỏ riêng biệt giữa nhà nguyện lạnh lẽo mênh mông, các hồng y không thể liên lạc với nhau hay với thế giới bên ngoài. Họ phải độc lập ra quyết định thông qua cầu nguyện và Thần Khải, tốt nhất là trong lúc quỳ gối trước những trang thờ nhỏ với Thánh giá treo bên trên và ánh nến lung linh là những vật trang hoàng duy nhất. Bên trong các căn phòng tối, ẩm ướt đó, chỉ có một chiếc giường thô mộc làm chỗ ngả lưng chợp mắt để lấy lại sức, một bô đựng phân, một bình đi tiểu, một lọ hạnh nhân ngào đường, bánh hạnh nhân, bánh quy, đường, một bầu nước, và muối, làm đồ ăn thức uống. Vì không có khu bếp chính nên thức ăn được chuẩn bị ngay trong cung điện riêng của các hồng y và được mang đến trong khay gỗ, đưa qua một ô mở nơi cánh cửa chính. Trong thời gian này mỗi vị hồng y đấu tranh với lương tâm của chính mình để quyết định xem ai sẽ phục vụ tốt nhất cho gia đình, xứ sở và cho Giáo hội. Bởi nếu như người ta bất cẩn thì cho dầu có giữ được bao nhiêu của cải trên thế gian cũng sẽ đánh mất linh hồn bất tử của mình.
Thời gian không thể để lãng phí, bởi vì sau một tuần khẩu phần sẽ bị cắt; sau đó sẽ chỉ còn bánh mì không, rượu vang và nước lã được mang đến cho các hồng y. Bởi vì một khi Giáo hoàng mất đi, cảnh hỗn loạn ngự trị khắp nơi. Không có người cầm trịch, phố phường thành Rome rơi vào cảnh hỗn loạn hoàn toàn. Các cửa hàng bị hôi của, các lâu đài bị phá phách, hàng trăm người bị giết. Và đó vẫn chưa phải là tất cả. Bởi chừng nào còn chưa có người đội chiếc mũ miện thiêng liêng thì chính thành Rome cũng đứng trước nguy cơ bị chinh phục.



Vì thế ngay khi cuộc bỏ phiếu mới bắt đầu, đã có hàng ngàn người dân tụ tập tại quảng trường phía trước nhà nguyện. Họ đứng yên cầu nguyện lớn tiếng, hát thánh ca và hi vọng rằng một Giáo hoàng mới sẽ kêu cầu với trời cao để ngăn chặn cảnh địa ngục trên đường phố. Họ vẫy những lá cờ nhỏ, giương cao hiệu kì và chờ một khâm sứ xuất hiện nơi ban-công nhà nguyện loan báo sự cứu rỗi.
Vòng đầu kéo dài ba ngày nhưng không vị hồng y nào nhận được đa số hai phần ba cần thiết. Hồng y Ascanio Sforza của Milan và hồng y della Rovere của Naples nhận được số phiếu bầu ngang nhau. Mỗi vị được tám phiếu. Rodrigo Borgia với bảy phiếu là lựa chọn thứ nhì của hầu hết Hồng y đoàn. Khi cuộc kiểm phiếu hoàn tất và thắng bại chưa thể phân định, các lá phiếu được đem đốt theo đúng nghi thức.
Sáng hôm đó, đám đông nơi quảng trường theo dõi với bao hi vọng khi làn khói vươn lên từ ống khói tạo thành hình một dấu hỏi màu xám đậm trên khoảng trời trong xanh bên trên Nhà nguyện Sistine. Xem đấy là dấu hiệu, họ cầu Chúa phù hộ và giương những thánh giá đẽo tay bằng gỗ lên trời. Khi không có thông báo nào được đưa ra từ Vatican, dân chúng bắt đầu cầu nguyện càng nhiệt thành hơn và càng hát thánh ca lớn hơn.
Các vị hồng y quay lại phòng riêng của mỗi người để suy ngẫm lại.
Cuộc kiểm phiếu lần thứ nhì, hai ngày sau, cũng gần như lần thứ nhất; không có ai vượt trội, và lần này khi khói đen vươn lên từ ống khói, tiếng cầu nguyện nhỏ đi và tiếng hát thánh ca cũng lịm dần. Quảng trường toát lên vẻ ma mị trong bóng tối, lập lòe ánh đèn lồng cùng ngọn đèn đường lúc mờ lúc tỏ.
Những lời đồn đại hoang đường lan tràn khắp thành Rome. Dân chúng thề rằng khi mặt trời lên vào buổi sáng hôm sau, trên bầu trời xuất hiện ba mặt trời giống nhau mà đám đông kinh ngạc coi là dấu hiệu rằng Giáo hoàng kế tiếp sẽ cân bằng ba quyền lực của giáo triều: trần thế, tâm linh và thiên đàng. Họ coi đó là điềm cát tường.
Nhưng đêm đó, trên tòa tháp cao của cung điện đức hồng y Giuliano della Rovere, nơi không một ai được phép vào, thiên hạ đồn rằng mười sáu ngọn đuốc bỗng nhiên cháy bùng lên lửa ngọn - và trong khi đám đông theo dõi, lúc đầu với lòng hi vọng khấp khởi rồi sau đó với sự lo lắng náo động, tất cả vụt tắt, trừ một ngọn. Một điềm xấu! Giáo triều còn lại quyền lực nào đây? Một sự im lặng đáng sợ bao trùm quảng trường.
Bên trong, mật nghị vẫn bế tắc một cách vô vọng. Trong nhà nguyện, các phòng càng trở nên lạnh lẽo hơn, ẩm ướt hơn. Nhiều vị hồng y cao tuổi bắt đầu cảm thấy căng thẳng. Rồi sẽ trở thành không thể chịu nổi; ai có thể còn suy nghĩ sáng suốt khi bụng đói cồn cào và đầu gối đau nhức?
Đêm hôm ấy, mấy vị hồng y lần lượt bước ra khỏi phòng và lẻn vào phòng các vị khác. Những cuộc tái thương nghị bắt đầu; họ mặc cả lại về tài sản và chức vụ. Những lời hứa được đổi. Một phiếu bầu có thể được đổi bằng những hứa hẹn hấp dẫn về tiền của, địa vị, cơ hội. Những cam kết trung thành mới được đúc ra. Nhưng trí óc và con tim của con người vốn thất thường, hẳn là khó nghĩ lắm thay. Bởi nếu một người có thể bán linh hồn mình cho con quỷ này thì lí do gì lại không bán cho con quỷ khác?
Nơi quảng trường đám đông đã thưa dần. Nhiều người mệt mỏi và nhụt chí, lo lắng đến sự an toàn của bản thân và gia đình mình, rời quảng trường để quay về nhà bên cạnh người thân. Thế nên vào lúc sáu giờ sáng hôm sau, khi làn khói từ ống khói cuối cùng đã chuyển sang màu trắng và đá bắt đầu rơi ra khỏi những cửa sổ bị phong kín của Vatican để người ta loan truyền thông báo thì chỉ còn rất ít người nghe được.
Một cây thánh giá ban phước được giương cao trên đầu họ và một dáng người lờ mờ không rõ, mặc trang phục thanh nhã, tuyên bố, “Với niềm vui lớn lao ta đến đây công bố, chúng ta đã có Giáo hoàng mới.”
Những người biết về sự bế tắc trong cuộc bầu chọn tự hỏi ai trong hai vị hồng y dẫn đầu đã được bầu. Là hồng y Ascanio Sforza hay hồng y della Rovere? Nhưng rồi lúc đó từ nơi cửa sổ một bóng người khác xuất hiện, cao lớn hơn, uy nghi hơn, và những mảnh giấy rơi từ tay ông, tung lên như hoa giấy, với dòng chữ viết tháu: “Giáo hoàng của chúng ta là hồng y Rodrigo Borgia của Valencia, Giáo hoàng Alexander VI. Chúng ta đã được cứu rỗi!”

[/size]



Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Docsach24 © 2019 docsach24.co
Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Docsach24 Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Docsach24 Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Docsach24 Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Docsach24 Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Docsach24


Last edited by trangd on Thu Oct 20, 2022 7:37 pm; edited 1 time in total
trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6

Post by trangd Wed Oct 19, 2022 10:48 pm

Chuong 2.



[size=19]Ẩn mình dưới chân những ngọn đồi của rặng Apennines, cách thành Rome một ngày đi ngựa là một vùng đất rộng với khu rừng tuyết tùng và thông tuyệt đẹp vây quanh hồ nước nhỏ trong xanh. Chú của Rodrigo Borgia, Giáo hoàng Calixtus III, đã tặng ông vùng đất này làm quà; trong mấy năm qua, ông đã xây dựng nó thành một chốn ẩn cư tráng lệ ở miền quê cho bản thân và gia đình.
Đây là Ngân Hồ, một chốn bồng lai tiên cảnh. Tràn ngập vô vàn âm thanh của thiên nhiên và bao sắc màu của tạo vật, nơi đây đã trở thành vườn địa đàng đối với ông. Từ rạng đông đến hoàng hôn, khi màu thiên thanh nhạt khỏi nền trời, mặt hồ chuyển sang sắc xám bạc. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên trông thấy nơi này, hồng y đã bị hút hồn. Ông hi vọng mình và con cái sẽ trải qua những khoảng thời gian hạnh phúc nhất ở đây.
Vào những ngày hè nắng vàng rực, mấy đứa bé tung tăng tắm mát trong hồ rồi chạy nhảy tưng bừng trên những cánh đồng xanh mướt cỏ hoa, trong khi hồng y dạo bước qua những vườn cam chanh ngát hương với tràng hạt bằng vàng trên tay. Suốt khoảng thời gian thanh bình đó, ông kinh ngạc xiết bao trước vẻ đẹp của cuộc sống và nhất là vẻ đẹp trong cuộc sống của ông. Dĩ nhiên, ông từng làm việc cật lực, đã khổ công quan tâm đến từng chi tiết ngay từ thời còn là một giám mục trẻ, nhưng điều đó quyết định đến hạnh vận của một người đến mức nào? Bởi có biết bao nhiêu kiếp người khốn khổ từng phải nhọc nhằn với bao nỗi gian truân thế nhưng chẳng được trời cao tưởng thưởng chút gì ở chốn hồng trần này đó sao? Lòng biết ơn tràn ngập hồn ông và hồng y ngước nhìn khoảng trời xanh trong kia, thì thầm lời nguyện cầu và xin ban phúc. Bởi ẩn dưới đức tin kia, sau bao nhiêu năm tháng hưởng thiên ân, lòng ông vẫn canh cánh nỗi kinh sợ rằng để có được một cuộc đời như thế này, một ngày kia ông phải trả cái giá rất đắt. Tất nhiên là Chúa rất hào phóng ban phát phúc lành, nhưng để xứng đáng dẫn dắt bao linh hồn về với Giáo hội Thần thánh thì cái thành khẩn phải được thử thách. Bởi còn cách nào khác để Cha Trên Trời phán xét một linh hồn có xứng đáng hay không? Hồng y hi vọng có thể chứng tỏ mình vượt qua được thử thách đó.



Một buổi tối nọ, sau khi cùng các con ăn một bữa thật ngon miệng bên bờ hồ, ông cho chúng thưởng thức một buổi bắn pháo hoa rực rỡ. Rodrigo bế bé Jofre trong tay còn Juan nắm chặt vạt áo của cha.
Những ngôi sao trắng bạc chiếu sáng bầu trời bằng các vòng cung khổng lồ sáng rực rồi tung thành bao dòng thác lấp lánh màu sắc tươi vui. Cesare nắm tay em gái, nhận ra con bé đang run rẩy, và khi tiếng thuốc súng nổ giòn, ánh sáng tuôn trào tỏa rực bầu trời, con bé hét ầm lên.
Khi hồng y thấy con gái sợ hãi, ông liền trao đứa bé cho Cesare và cúi xuống ôm Lucrezia. “Papa bế con đây,” ông dỗ dành. “Đừng sợ, Papa sẽ bảo vệ con.”
Cesare đứng sát vào cha, bế bé Jofre và lắng nghe cha giảng giải về các chòm sao bằng những cử chỉ uy nghi cùng giọng điệu hùng hồn. Cậu cảm thấy tiếng nói của cha là nguồn an ủi lớn lao đến độ cậu biết ngay rằng lần này ở Ngân Hồ là một khoảng thời gian mà cậu sẽ luôn trân trọng ghi nhớ trong lòng. Bởi trong đêm đó cậu là đứa bé hạnh phúc nhất trên đời và cậu chợt cảm thấy mọi chuyện đều khả thi.
* * *
Hồng y Rodrigo Borgia thích thú mọi điều mình làm. Ông là một trong số rất hiếm những người hăng say đến mức có thể cuốn mọi người xung quanh vào cơn lốc nhiệt tình của mình. Khi con cái trưởng thành hơn và sở học ngày càng tinh thông, ông bàn luận với chúng về tôn giáo, chính trị và triết học chuyên sâu hơn, dành hàng giờ giảng giải cho Cesare và Juan nghệ thuật ngoại giao, giá trị của chiến lược tôn giáo và chính trị. Cesare hào hứng với thú vui đầy tính trí thức này còn Juan lại thường tỏ ra ngán ngẩm. Do nỗi sợ từ tai nạn trước đây nên hồng y đã nuông chiều Juan đến độ làm hỏng nó, cậu con thứ trở nên dễ cáu kỉnh và hư đốn. Nhưng cậu con trai Cesare mới là người ông đặt hi vọng lớn nhất, thực sự ông rất kì vọng vào đứa con này.
Rodrigo hân thưởng những lần viếng thăm lâu đài Orsini, bởi vì cả hai người, cô em họ Adriana và cô cháu dâu trẻ trung Julia đều ngưỡng mộ và rất quan tâm đến ông. Julia đã trổ mã thành một thanh nữ rất xinh đẹp với mái tóc vàng tươi óng ánh hơn cả mái tóc của Lucrezia, dài gần chấm gót. Với đôi mắt xanh to tròn và đôi môi mọng, nàng xứng đáng với tên gọi La Bella (Mĩ nhân) được lưu truyền khắp thành Rome. Và vị hồng y bắt đầu cảm thấy một niềm yêu mến nào đó dành cho cô gái.



Julia Farnese xuất thân từ thành phần tiểu quý tộc và mang theo số của hồi môn ba trăm florin - một khoản kha khá - khi đính hôn với Orsini, vốn nhỏ hơn nàng vài tuổi. Trong khi những đứa con của Rodrigo luôn hạnh phúc khi gặp ông thì Julia cũng bắt đầu chờ mong những cuộc thăm viếng của ông. Ông xuất hiện làm nàng ửng hồng đôi má, giống như đa số những phụ nữ mà ông từng gặp trong đời. Thông thường, sau khi giúp Lucrezia gội đầu và vận những bộ quần áo đẹp nhất để đón cha, bản thân Julia cũng đặc biệt cố gắng làm cho mình trông hấp dẫn nhất. Rodrigo Borgia, mặc dù tuổi tác cách biệt, vẫn cảm thấy bị cô gái đương thì này mê hoặc.
Vì quý trọng người em họ Adriana và có cảm tình với cô dâu trẻ Julia Farnese nên khi sắp đến lễ cưới của đứa con đỡ đầu, Orso, ông tự đề xuất mình làm chủ lễ cho cuộc hôn phối của đôi trẻ tại Sảnh Sao của lâu đài ông.
Vào ngày đó, cô thanh nữ Julia mặc áo cưới bằng xa-tanh trắng với mạng choàng đính đầy những hạt ngọc trai màu bạc phủ trên khuôn mặt dịu dàng, ông thấy nàng dường như đã từ một bé gái biến thành giai nhân tuyệt thế mà ông chưa từng gặp trong đời. Mơn mởn, rạng ngời sức sống khiến đức hồng y phải cố kiềm chế không lộ vẻ si mê.



Chẳng bao lâu sau ngày cưới, chàng trai trẻ Orso được gửi đến nơi ẩn cư miền quê của hồng y ở Bassanello, cùng các vị cố vấn, và được huấn luyện để trở thành một chỉ huy quân đội. Còn nàng Julia Farnese rất sẵn lòng buông mình vào trong vòng tay của ngài hồng y và sau đó là trên giường của ngài.
* * *
Khi Cesare và Juan đến độ tuổi thiếu niên, cả hai được gửi đi xa để bắt đầu hoàn thành sứ mệnh của mình. Juan đánh vật với bài vở và hồng y nhận định rằng cuộc sống của một linh mục hay một học giả không phải là tương lai dành cho đứa con này. Thay vào đó, nó sẽ trở thành một chiến binh. Còn Cesare với trí thông minh đáng kinh ngạc đã đưa chàng đến với ngôi trường tại Perugia. Sau hai năm miệt mài kinh sử để nắm vững kiến thức các môn học mà chàng rất có năng khiếu, Cesare được gửi đến Đại học Pisa để nghiên cứu chuyên sâu hơn về thần học và giáo luật. Hồng y hi vọng Cesare sẽ đi theo bước chân ông và vươn lên vị trí trọng vọng trong Giáo hội.
Mặc dầu cũng làm tròn nghĩa vụ đối với ba đứa con trước với các nàng kĩ nữ, Rodrigo Borgia đặt hoài bão tương lai của mình vào những đứa con mà ông có với Vanozza: Cesare, Juan và Lucrezia. Đối với đứa con út Jofre, ông cảm thấy rất khó gần gũi. Và rồi để bào chữa cho sự thiếu sót đó trong tình phụ tử, ông bèn vận dụng lí luận để biện minh. Chính lúc đó ông mới quay ra tự hỏi chẳng hay cái thằng bé này có đích thực là con mình không. Bởi ai có thể thực sự biết được những bí mật ẩn giấu trong trái tim một người đàn bà?
* * *
Hồng y Borgia đã giữ chức phó chưởng ấn, tức luật sư của giáo triều, qua mấy đời Giáo hoàng. Ông đã phục vụ cho Giáo hoàng đang tại vị, Giáo hoàng Innocent, được tám năm, và trong thời gian đó, ông đã làm mọi chuyện khả thi nhằm tăng cường uy lực và tính chính thống của giáo triều.
Khi Giáo hoàng Innocent nằm hấp hối thì cả sữa mẹ tươi mát cho đến truyền máu từ ba bé trai cũng không cứu được mạng sống của ngài. Các em được trả công mỗi người một ducat, những khi thí nghiệm y khoa thất bại và dẫn đến tai họa, bọn trẻ được tưởng thưởng bằng những đám tang chu đáo và gia đình mỗi em được lãnh bốn mươi ducat.



Bất hạnh thay, Giáo hoàng Innocent đã để lại một ngân khố giáo triều trống rỗng và Giáo hội Thần thánh phải trần mình gánh chịu những lời xúc phạm của ông vua Tây Ban Nha theo Công giáo và ông vua Pháp sùng đạo. Tình trạng tài chính của giáo triều khốn đốn đến độ ngay cả bản thân Đức Thánh Cha cũng phải đem cầm cố chiếc mũ miện thiêng liêng của mình để có tiền mua những cành cọ đem phân phát trong ngày Chủ nhật Lễ Lá. Làm trái lại lời khuyên của hồng y Rodrigo Borgia, Giáo hoàng Innocent đã cho phép các vương công của Milan, Naples, Venice, Florence cùng các thành bang và thái ấp khác được trì hoãn cống nạp vào ngân khố của nhà thờ và bản thân ông đã phung phí tiền của để chuẩn bị những cuộc Thập tự chinh mà chẳng mấy người muốn mạo hiểm tham gia.
Chỉ một bộ óc bậc thầy về chiến lược và tài chính mới đủ khả năng trùng hưng Giáo hội Công giáo La Mã trở lại thời kì huy hoàng trước đây. Nhưng đó là ai? Mọi người băn khoăn tự hỏi. Tuy nhiên chỉ có Hồng y đoàn thiêng liêng, được Thánh Linh dẫn dắt và được cao xanh ban ơn linh hứng, mới có quyền quyết định. Bởi vì Giáo hoàng không thể là người thường mà phải là đấng được trời cao phái đến.
* * *
Ngày 6 tháng 8 năm 1492, trong Đại Sảnh của Nhà nguyện Sistine, với một toán Vệ binh Thụy Sĩ, các nhà quý tộc thành Rome và các vị sứ giả nước ngoài giúp ngăn chặn những kẻ xâm nhập, mật nghị của Hồng y đoàn bắt đầu thực hiện việc bầu chọn Giáo hoàng mới.
Theo truyền thống, ngay khi Giáo hoàng Innocent qua đời, tất cả các hồng y, hai mươi ba thành viên của Hồng y đoàn, tụ tập lại để bầu đấng Thần-nhân sẽ đóng vai trò là Người giữ chìa khóa, Người kế thừa Thánh Peter, Đại diện dưới thế của Chúa Jesus. Đó chẳng những là người lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo La Mã mà còn là người lãnh đạo các lãnh thổ thuộc giáo triều dưới trần gian. Để gánh vác trọng trách đó ông phải sở hữu trí thông minh ưu việt, tài lãnh đạo quân dân, khả năng giành lợi thế trong thương thuyết với những vương công trong xứ cũng như với các vua chúa nước ngoài.



Chiếc mũ miện thiêng liêng của Giáo hoàng mang theo triển vọng về những nguồn lợi lớn lao cũng như trách nhiệm thống nhất hay càng làm phân tán hơn cái tổ hợp những thành bang phong kiến vốn tạo thành trung tâm của bán đảo Ý. Và do đó, ngay cả trước khi Giáo hoàng Innocent băng hà, nhiều cuộc thương thảo đã diễn ra, tiền tài và tước vị đã được hứa hẹn, và một số cam kết trung thành đã được ngã giá nhằm bảo đảm phiếu bầu cho những hồng y nào đấy.
Trong nhóm ưu tuyển những hồng y được nhận định có thể trở thành giáo hoàng chỉ có một số ít là sáng giá: hồng y Ascanio Sforza ở Milan, hồng y Cibo của Venice, hồng y della Rovere của Naples, và hồng y Borgia của Valencia. Nhưng Rodrigo Borgia là một người nước ngoài - một người gốc Tây Ban Nha - và như thế cơ hội của ông có phần mong manh. Bất lợi lớn nhất của ông là bị coi là người Catalan. Và mặc dầu ông đã đổi tên mình từ “Borja” theo tiếng Tây Ban Nha sang “Borgia” theo tiếng Ý, những cựu tộc của thành Rome cũng chẳng vì thế mà ủng hộ ông hơn.
Tuy nhiên nhiều người trong Hồng y đoàn cũng thận trọng cân nhắc khi xét rằng ông đã phục vụ nhà thờ xuất sắc trong hơn ba mươi lăm năm. Với tư cách luật sư của giáo triều ông đã thương nghị nhiều tình huống ngoại giao khó khăn và đã khéo léo mang về lợi thế cho các đời Giáo hoàng trước đây mặc dầu với mỗi thắng lợi cho Vatican ông cũng tăng thêm của cải và lợi lộc cho gia đình mình. Ông đã đưa nhiều người thân vào những vị trí quyền lực và ban phát bổng lộc cho họ, những người mà nhiều thế gia cố cựu của nước Ý cảm thấy không tương xứng. Thế nên, một Giáo hoàng người Tây Ban Nha ư? Vô lí! Nơi ngự của Tông Tòa là ở Rome vậy thì Giáo hoàng phải là người từ một trong những thành bang trên bán đảo Ý cũng là chuyện hợp tình hợp lí thôi!
Giờ đây, được vây bọc trong bầu không khí huyền bí, mật nghị của Hồng y đoàn bắt đầu tiến hành công việc của Chúa. Được cách li trong những phòng nhỏ riêng biệt giữa nhà nguyện lạnh lẽo mênh mông, các hồng y không thể liên lạc với nhau hay với thế giới bên ngoài. Họ phải độc lập ra quyết định thông qua cầu nguyện và Thần Khải, tốt nhất là trong lúc quỳ gối trước những trang thờ nhỏ với Thánh giá treo bên trên và ánh nến lung linh là những vật trang hoàng duy nhất. Bên trong các căn phòng tối, ẩm ướt đó, chỉ có một chiếc giường thô mộc làm chỗ ngả lưng chợp mắt để lấy lại sức, một bô đựng phân, một bình đi tiểu, một lọ hạnh nhân ngào đường, bánh hạnh nhân, bánh quy, đường, một bầu nước, và muối, làm đồ ăn thức uống. Vì không có khu bếp chính nên thức ăn được chuẩn bị ngay trong cung điện riêng của các hồng y và được mang đến trong khay gỗ, đưa qua một ô mở nơi cánh cửa chính. Trong thời gian này mỗi vị hồng y đấu tranh với lương tâm của chính mình để quyết định xem ai sẽ phục vụ tốt nhất cho gia đình, xứ sở và cho Giáo hội. Bởi nếu như người ta bất cẩn thì cho dầu có giữ được bao nhiêu của cải trên thế gian cũng sẽ đánh mất linh hồn bất tử của mình.
Thời gian không thể để lãng phí, bởi vì sau một tuần khẩu phần sẽ bị cắt; sau đó sẽ chỉ còn bánh mì không, rượu vang và nước lã được mang đến cho các hồng y. Bởi vì một khi Giáo hoàng mất đi, cảnh hỗn loạn ngự trị khắp nơi. Không có người cầm trịch, phố phường thành Rome rơi vào cảnh hỗn loạn hoàn toàn. Các cửa hàng bị hôi của, các lâu đài bị phá phách, hàng trăm người bị giết. Và đó vẫn chưa phải là tất cả. Bởi chừng nào còn chưa có người đội chiếc mũ miện thiêng liêng thì chính thành Rome cũng đứng trước nguy cơ bị chinh phục.



Vì thế ngay khi cuộc bỏ phiếu mới bắt đầu, đã có hàng ngàn người dân tụ tập tại quảng trường phía trước nhà nguyện. Họ đứng yên cầu nguyện lớn tiếng, hát thánh ca và hi vọng rằng một Giáo hoàng mới sẽ kêu cầu với trời cao để ngăn chặn cảnh địa ngục trên đường phố. Họ vẫy những lá cờ nhỏ, giương cao hiệu kì và chờ một khâm sứ xuất hiện nơi ban-công nhà nguyện loan báo sự cứu rỗi.
Vòng đầu kéo dài ba ngày nhưng không vị hồng y nào nhận được đa số hai phần ba cần thiết. Hồng y Ascanio Sforza của Milan và hồng y della Rovere của Naples nhận được số phiếu bầu ngang nhau. Mỗi vị được tám phiếu. Rodrigo Borgia với bảy phiếu là lựa chọn thứ nhì của hầu hết Hồng y đoàn. Khi cuộc kiểm phiếu hoàn tất và thắng bại chưa thể phân định, các lá phiếu được đem đốt theo đúng nghi thức.
Sáng hôm đó, đám đông nơi quảng trường theo dõi với bao hi vọng khi làn khói vươn lên từ ống khói tạo thành hình một dấu hỏi màu xám đậm trên khoảng trời trong xanh bên trên Nhà nguyện Sistine. Xem đấy là dấu hiệu, họ cầu Chúa phù hộ và giương những thánh giá đẽo tay bằng gỗ lên trời. Khi không có thông báo nào được đưa ra từ Vatican, dân chúng bắt đầu cầu nguyện càng nhiệt thành hơn và càng hát thánh ca lớn hơn.
Các vị hồng y quay lại phòng riêng của mỗi người để suy ngẫm lại.
Cuộc kiểm phiếu lần thứ nhì, hai ngày sau, cũng gần như lần thứ nhất; không có ai vượt trội, và lần này khi khói đen vươn lên từ ống khói, tiếng cầu nguyện nhỏ đi và tiếng hát thánh ca cũng lịm dần. Quảng trường toát lên vẻ ma mị trong bóng tối, lập lòe ánh đèn lồng cùng ngọn đèn đường lúc mờ lúc tỏ.
Những lời đồn đại hoang đường lan tràn khắp thành Rome. Dân chúng thề rằng khi mặt trời lên vào buổi sáng hôm sau, trên bầu trời xuất hiện ba mặt trời giống nhau mà đám đông kinh ngạc coi là dấu hiệu rằng Giáo hoàng kế tiếp sẽ cân bằng ba quyền lực của giáo triều: trần thế, tâm linh và thiên đàng. Họ coi đó là điềm cát tường.
Nhưng đêm đó, trên tòa tháp cao của cung điện đức hồng y Giuliano della Rovere, nơi không một ai được phép vào, thiên hạ đồn rằng mười sáu ngọn đuốc bỗng nhiên cháy bùng lên lửa ngọn - và trong khi đám đông theo dõi, lúc đầu với lòng hi vọng khấp khởi rồi sau đó với sự lo lắng náo động, tất cả vụt tắt, trừ một ngọn. Một điềm xấu! Giáo triều còn lại quyền lực nào đây? Một sự im lặng đáng sợ bao trùm quảng trường.
Bên trong, mật nghị vẫn bế tắc một cách vô vọng. Trong nhà nguyện, các phòng càng trở nên lạnh lẽo hơn, ẩm ướt hơn. Nhiều vị hồng y cao tuổi bắt đầu cảm thấy căng thẳng. Rồi sẽ trở thành không thể chịu nổi; ai có thể còn suy nghĩ sáng suốt khi bụng đói cồn cào và đầu gối đau nhức?
Đêm hôm ấy, mấy vị hồng y lần lượt bước ra khỏi phòng và lẻn vào phòng các vị khác. Những cuộc tái thương nghị bắt đầu; họ mặc cả lại về tài sản và chức vụ. Những lời hứa được đổi. Một phiếu bầu có thể được đổi bằng những hứa hẹn hấp dẫn về tiền của, địa vị, cơ hội. Những cam kết trung thành mới được đúc ra. Nhưng trí óc và con tim của con người vốn thất thường, hẳn là khó nghĩ lắm thay. Bởi nếu một người có thể bán linh hồn mình cho con quỷ này thì lí do gì lại không bán cho con quỷ khác?
Nơi quảng trường đám đông đã thưa dần. Nhiều người mệt mỏi và nhụt chí, lo lắng đến sự an toàn của bản thân và gia đình mình, rời quảng trường để quay về nhà bên cạnh người thân. Thế nên vào lúc sáu giờ sáng hôm sau, khi làn khói từ ống khói cuối cùng đã chuyển sang màu trắng và đá bắt đầu rơi ra khỏi những cửa sổ bị phong kín của Vatican để người ta loan truyền thông báo thì chỉ còn rất ít người nghe được.
Một cây thánh giá ban phước được giương cao trên đầu họ và một dáng người lờ mờ không rõ, mặc trang phục thanh nhã, tuyên bố, “Với niềm vui lớn lao ta đến đây công bố, chúng ta đã có Giáo hoàng mới.”
Những người biết về sự bế tắc trong cuộc bầu chọn tự hỏi ai trong hai vị hồng y dẫn đầu đã được bầu. Là hồng y Ascanio Sforza hay hồng y della Rovere? Nhưng rồi lúc đó từ nơi cửa sổ một bóng người khác xuất hiện, cao lớn hơn, uy nghi hơn, và những mảnh giấy rơi từ tay ông, tung lên như hoa giấy, với dòng chữ viết tháu: “Giáo hoàng của chúng ta là hồng y Rodrigo Borgia của Valencia, Giáo hoàng Alexander VI. Chúng ta đã được cứu rỗi!”

[/size]
Lưu & chia sẻ:   [url=https://twitter.com/share?url=https://docsach24.co/doc-sach/cha-con-giao-hoang/chuong-2-213470.html&text=Cha Con Gi%C3%A1o][/url]


 Chương 2 


 
 
Chương 3.

Khi hồng y Rodrigo Borgia trở thành Giáo hoàng Alexander VI, ông biết rằng điều đầu tiên mình phải làm là mang lại trật tự cho những đường phố Rome. Từ khi Giáo hoàng Innocent qua đời đến trước lúc ông đăng quang, đã xảy ra hơn hai trăm vụ giết người trong thành phố. Với tư cách là Đức Thánh Cha của họ, ông biết rằng mình có bổn phận phải ngăn chặn ngay tình trạng hỗn loạn vô pháp vô thiên đó; ông phải xử ngay một tên thủ ác để làm gương cho bao đứa khác, bởi còn cách nào để giúp cho những linh hồn lương thiện lại có thể an tâm cầu nguyện đây? Tên sát nhân đầu tiên đã bị bắt và treo cổ ngay. Không chỉ thế, người em của hắn cũng bị treo cổ. Và - như là sự sỉ nhục lớn nhất cho bất kì công dân thành Rome nào - nhà của hắn bị san bằng, bị thiêu rụi và giật sập hoàn toàn để cho gia đình hắn không còn chỗ nương thân.

Trong vòng vài tuần lễ trật tự được tái lập trên các đường phố Rome và người dân hài lòng thấy một cái đầu mạnh mẽ và khôn ngoan như thế bên dưới chiếc mũ miện thiêng liêng. Sự lựa chọn của các hồng y giờ đây cũng là sự lựa chọn của dân chúng.





Nhưng Alexander còn phải đưa ra nhiều quyết định khác nữa. Và hai vấn đề quan trọng nhất phải giải quyết, cả hai đều không phải chuyện tâm linh. Trước tiên, ông phải tạo dựng một đội quân để thiết định Giáo hội Công giáo trở thành quyền lực thế tục và lấy lại quyền kiểm soát trên các lãnh thổ thuộc giáo triều ở Ý. Thứ nhì, ông phải xây dựng và vun vén tài sản cho các con ông.

Tuy nhiên, vì ông ngồi trên ngai giáo chủ nơi Sảnh Đức Tin trong cung điện của Tòa Thánh Vatican, ông còn phải thận trọng cân nhắc những đường lối của Chúa, của thế gian, của các quốc gia và của các thế gia vọng tộc. Bởi chẳng phải ông là người đại diện bất khả ngộ của Chúa dưới trần gian này hay sao? Và do đó, vấn đề đối với ông chẳng phải là đối đãi với toàn bộ thế giới, các quốc gia và các ông hoàng bà chúa, tất cả các thành bang độc lập trên bán đảo Ý, kể cả những nước cộng hòa và những thành bang theo chế độ tập quyền hay sao? Và cả những vùng đất mới khám phá nữa? Và nghĩa vụ của ông chẳng phải là ban cho họ lời khuyên minh trí nhất hay sao? Chúng có gây nguy hại cho luật lệ của Chúa hay không?





Và dòng họ của ông, Borgia, với vô số người thân cần được chăm sóc, và những đứa con trai, con gái của ông, tuy gắn bó máu thịt với ông nhưng không thể kiểm soát vì mỗi đứa có đam mê riêng - phải làm gì đây? Nhiệm vụ trước tiên của ông nên đặt ở đâu? Và hai mục tiêu chính của ông có thể được hoàn thành mà không phải hi sinh cái này vì cái kia hay không?

Bổn phận của ông đối với Chúa đã rõ ràng. Ông phải làm cho Giáo hội hùng mạnh. Kí ức về cuộc Đại Ly Giáo bảy mươi lăm năm trước, khi ấy có hai Giáo hoàng và hai Giáo hội - cả hai đều yếu ớt - càng khiến cho ông quyết định mạnh mẽ hơn.

Những thành bang của Ý vốn thuộc về Giáo hội thì giờ đây do các bạo chúa cai trị, chúng chỉ nghĩ đến việc vơ vét cho đầy những két sắt của gia đình chúng hơn là nộp tô tức cho Giáo hội Thần thánh đã có công thánh hóa sự cai trị của bọn chúng. Các ông hoàng bà chúa chỉ lợi dụng nhà thờ như một công cụ tìm kiếm quyền lực cho bản thân chúng. Việc cứu rỗi những linh hồn bất tử của nhân loại bị bỏ quên. Ngay cả các ông vua giàu có của Tây Ban Nha và Pháp cũng giữ lại phần tô tức lẽ ra phải cống nạp cho Giáo hội khi nào họ cơm không lành canh không ngọt với Giáo hoàng. Chúng cả gan như thế à! Nếu như Giáo hội Thần thánh rút lại lời ban phúc cho ngôi báu của chúng thì sao? Bởi dân chúng vâng lời vua chúa chỉ vì họ tin rằng chúng được Chúa phong vương, và chỉ có Giáo hoàng là Người Đại diện của Giáo hội và của Chúa Jesus, mới có thể thay mặt Chúa xức dầu thánh mà ban phúc đó. Alexander biết rằng mình phải tiếp tục cân bằng quyền lực giữa các vua Pháp và các vua Tây Ban Nha. Không bao giờ để cái Đại Hội Đồng kinh khủng mấy ông vua lập ra nảy nòi thêm lần nào nữa. Giáo hội và Giáo hoàng phải có đủ quyền lực thế tục để củng cố ý Chúa. Nói vắn tắt là, phải có một đạo quân hùng hậu, tinh nhuệ. Từ đó, Alexander thận trọng xem xét quyền lực của mình trên cương vị Giáo hoàng. Và ông vạch ra một kế hoạch.

* * *

Ngay sau khi đăng quang, ông bổ nhiệm cậu con cả Cesare làm hồng y. Khi hãy còn là một đứa bé, Cesare đã được Giáo hội ban bổng lộc, cho tước giám mục với thu nhập hàng ngàn ducat. Giờ đây mặc dầu chỉ mới mười bảy tuổi, với tất cả những đam mê nhục dục và những thói tật hư đốn của tuổi trẻ, nhưng trong thể xác và trong tâm hồn chàng ta đã một người 


Last edited by trangd on Wed Oct 19, 2022 10:53 pm; edited 1 time in total
trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6

Post by trangd Wed Oct 19, 2022 10:52 pm

hoàn toàn trưởng thành. Chàng đã có bằng cấp về giáo luật và thần học từ hai đại học Perugia, Pisa, và luận văn tốt nghiệp được đánh giá là một trong những công trình xuất sắc nhất của sinh viên từ trước đến nay. Thế nhưng đam mê lớn của chàng là nghiên cứu lịch sử và chiến lược quân sự. Thực tế, chàng cũng từng tham gia vài trận đánh nhỏ, và đã tỏ ra vượt trội trong một cuộc chiến. Chàng đã được rèn luyện binh pháp khá tốt.
Alexander quả thật là may mắn. Chúa đã ban cho cậu con này của ông một trí óc nhạy bén, một mục tiêu kiên định, và cái tính tàn bạo bẩm sinh, thiếu nó thì khó mà sống còn trong cái thế giới đảo điên thiện ác này.
trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6

Post by trangd Wed Oct 19, 2022 10:58 pm

[size=19]Ước muốn trả thù của hồng y Giuliano della Rovere ngày càng lớn dần thành nỗi ám ảnh. Ông thường choàng tỉnh trong đêm, lạnh toát và rùng mình vì Alexander xâm nhập vào các giấc mộng của ông. Và thế là, mỗi lần cầu nguyện vào buổi sáng, kể cả lúc quỳ trong nhà nguyện, dưới con mắt dõi theo của các bức tượng khổng lồ bằng cẩm thạch tạc các vị thánh nhân từ và chân dung rực rỡ của các thánh tử đạo, ông cũng lập mưu tiêu diệt Giáo hoàng.
Không chỉ vì della Rovere thất bại trong cuộc bầu Giáo hoàng khiến ông nuôi hận, dù chuyện đó cũng là một phần lí do. Mà cái chính là ông tin rằng bản chất Alexander là một kẻ vô đạo đức.
Vẻ dễ chịu và khí chất lôi cuốn của Giáo hoàng dường như khiến những người chung quanh ông hững hờ với tầm quan trọng của việc cứu rỗi linh hồn, bất lực trước chuyện ông ta đặt con cái của mình vào những vị trí cao trong Giáo hội. Nhiều vị hồng y và hầu hết các ông vua, cũng như dân chúng thành Rome, tha thứ cho sự lộng hành của ông; hình như họ thích thú với các đám rước to, những buổi dạ hội, yến tiệc, các sự kiện lớn, lễ hội hoành tráng do ông vung tiền của ngân khố Giáo hội ra tổ chức, những khoản tiền khổng lồ lẽ ra nên được dùng để bảo vệ các lãnh thổ thuộc giáo triều và tiến quân vào những vùng lãnh thổ mới.



Trái ngược với vị Giáo hoàng dễ mến Alexander, hồng y della Rovere là một con người thiếu kiên nhẫn, tính khí nóng nảy, người dường như chẳng bao giờ vui vẻ ngoại trừ những lúc đi săn hay chinh chiến. Ông làm việc liên tục và không chịu được bất kì hình thức vui chơi nào. Chính vì khuyết điểm này trong tính cách mà ông lại tự coi mình là một người đức hạnh. Ông ít quan tâm đến bất kì cái gì hay bất kì ai, mặc dù ông cũng có ba cô con gái. Trong suốt cuộc đời mình, ông chỉ thực sự yêu có mỗi một lần thôi.
Hồng y della Rovere luôn toát ra vẻ nghiêm trang, lẽ ra sẽ khiến người ta an lòng nếu phải chi đôi mắt đen, to tròn ấy không lóe lên ánh nhìn của kẻ cuồng tín. Cái đầu to tướng, cứng nhắc với lưỡng quyền vuông vức mạnh mẽ biến khuôn mặt ông thành một bức tranh sơn dầu với những đường nét và góc cạnh đơn điệu. Ông ít khi cười để phô hàm răng đẹp, đều và nhỏ, duy chỉ nhờ cái cằm có lúm đồng tiền mà ông mới có thêm nét dịu dàng. Đó là một khuôn mặt tiêu biểu của thời Trung cổ, một chân dung sống động của Ngày Phán Xét. Dáng người vững chãi như bàn thạch của ông tạo ấn tượng về một con người cố chấp hơn là mạnh mẽ. Lòng can đảm và trí thông minh của ông không ai sánh bằng. Nhưng ông không được yêu thích vì những lời nói thô bạo và nhục mạ, trái ngược hoàn toàn với vẻ thanh nhã của Giáo hoàng. Tuy thế, ông vẫn là một địch thủ rất đáng gờm.



Trong nhiều lá thư gửi cho vua Charles nước Pháp, vua Herrante của Naples, và cho những người khác, ông thường xuyên lên án Alexander tội mua thần bán thánh, lừa bịp, tham nhũng, hối lộ, gia đình trị, tham lam, phàm ăn tục uống, tội đa dâm hiếu sắc. Thực ra, chính bản thân ông cũng từng phạm cùng những tội lỗi mà ông kết án Alexander, nhưng điều này dường như không làm thay đổi phán xét của ông chút nào.
Một số lời kết tội của ông là đúng. Sau cuộc bầu bán, Alexander đã chuyển quyền sở hữu nhiều lâu đài giá trị cho những hồng y đã hậu thuẫn ông ta, phong cho họ những chức vụ quan trọng nhất của Vatican. Ascanio Sforza nhậm chức phó chưởng ấn vì đã giúp củng cố vị trí Giáo hoàng bằng lá phiếu cuối cùng. Ông ta cũng được ban một lâu đài, nhiều giáo đường và thái ấp. Người ta đồn là trong đêm tối trước cuộc bầu chọn, nhiều người thấy hai con lừa chở những bao bạc nặng trịch từ dinh thự của hồng y Rodrigo Borgia đến dinh thự của hồng y Ascanio Sforza. Lá phiếu của hồng y Antonio Orsini đem lại hai thành phố có giá trị hàng ngàn ducat và các hồng y khác cũng nhận được chức vụ, nhiều bổng lộc hay thái ấp. Chính Giuliano della Rovere cũng được ban chức Khâm sứ Tòa thánh ở Avignon, một pháo đài lớn ở Ostia và cảng Senigallia trên biển Adriatic, một lâu đài và nhiều giáo đường khác cũng như bổng lộc giáo sĩ ở Florence.



Chuyện ban phát bổng lộc và lãnh địa cũng đâu phải mới mẻ gì. Đã thành thông lệ, sau khi được bầu, các tân Giáo hoàng lại ban phát của cải cho người khác, nào là lâu đài, nào là đất đai, vì nếu không, dân chúng thành Rome cũng mau chóng cướp mất thôi. Còn ai xứng đáng để được ban thưởng hơn những người đã tỏ lòng trung thành bằng cách bỏ phiếu cho ông? Đó còn là một bằng chứng cho lòng độ lượng của Alexander khi della Rovere cũng được nhận những bổng lộc hậu hĩ đâu kém gì người khác dù ai cũng biết rằng ông này đã bầu cho chính mình chứ đâu phải cho Alexander.
Nhưng lời kết tội mua thần bán thánh là sự phỉ báng quá đáng. Bởi hồng y della Rovere xuất thân từ một gia đình giàu có hơn và có nhiều quan hệ ưu thế hơn Rodrigo Borgia. Nếu như chức Giáo hoàng có thể mua bán và những món quà xa xỉ có thể giúp người ta thắng cử thì della Rovere đã rộng tay vung tiền hơn Alexander và kết quả sẽ khác đi.
Giờ đây, thù hận cay đắng đã vượt qua lí trí và cảm quan chính trị, Giuliano della Rovere, cùng mấy hồng y bất phục, lên kế hoạch khẩn cầu vua Charles của Pháp triệu tập Đại Hội Đồng.
Nhiều năm trước, Đại Hội Đồng có thể điều khiển và thậm chí phế truất Giáo hoàng: gồm các hồng y, giám mục và vua chúa, đại hội này từng được dùng để cân bằng quyền lực và hạn chế quyền tối thượng của giáo triều. Nhưng nó đã trở thành một vũ khí tịt ngòi từ khi bị Pius II triệt hạ ba mươi năm trước đây.
Tuy nhiên cảnh tượng Giáo hoàng mới phong cậu con trai Cesare của mình làm hồng y là chuyện quá chướng tai gai mắt đối với della Rovere khiến ông và các đồng minh tìm cách thổi luồng sinh khí mới vào khái niệm Đại Hội Đồng làm phương tiện để hủy diệt Alexander.
Muốn tự cách li, della Rovere rời thành Rome ngay sau lễ thụ chức của Cesare, rút lui về giáo đường chính thức của ông ta ở Ostia để bắt đầu mưu đồ tấn công Alexander. Một khi liên minh được thiết lập và kế hoạch được bày bố chu đáo, ông sẽ sang Pháp, đặt mình dưới sự bảo hộ của vua Charles.
* * *
Giáo hoàng Alexander VI đã sắp đặt xong cho các con trai mình, nay ông biết mình phải bắt đầu thiết lập vị thế của con gái trong kế hoạch tổng thể. Ông thận trọng xem xét những gì mình phải làm. Lucrezia, mới mười ba, chưa phải là thanh nữ, nhưng ông không thể đợi lâu hơn. Ông phải sắp xếp để hứa hôn nàng cho Giovanni Sforza, công tước xứ Pesaro. Ông từng hứa hẹn gả nàng cho hai chàng trai trẻ Tây Ban Nha khi ông còn là hồng y. Nhưng vị thế chính trị của ông đã thay đổi khi trở thành Giáo hoàng và ông phải lên kế hoạch chu đáo nhằm bảo đảm hôn ước với phía Milan. Việc hủy hôn với các chàng trai Tây Ban Nha phải được thực hiện thật êm thấm.
Lucrezia là tài sản giá trị nhất mà ông có được để sử dụng trong những liên minh hôn nhân. Chàng Giovanni hai mươi sáu tuổi, vừa mới góa vợ - vợ chàng chết khi sinh con - dĩ nhiên là người đầy triển vọng. Ông phải tiến hành nhanh chóng bởi vì chú của Giovanni, Il Moro, là người quyền lực nhất ở Milan. Ông phải làm bạn với hắn trước khi hắn tiếp tay cho các vua nước ngoài, ở Pháp hoặc Tây Ban Nha.



Alexander biết rằng nếu ông không thể thống nhất những thành bang phong kiến thành một nước Ý dưới sự cai trị của Tòa Thánh, thì bọn man rợ Thổ Nhĩ Kỳ - lũ ngoại đạo - chắc chắn sẽ xâm chiếm hết. Chúng sẽ hành quân đến các lãnh thổ La Mã bất cứ khi nào có cơ hội. Biết bao linh hồn sẽ bị đọa đày và bao nguồn lợi sẽ tuột khỏi tay Giáo hội chân chính duy nhất.
Nhưng quan trọng hơn cả, nếu ông không đủ khả năng giữ được lòng trung thành của dân chúng và bảo vệ thành Rome khỏi sự xâm lăng của ngoại bang, nếu ông không thể dùng tư cách Giáo hoàng để tăng cường quyền lực của Giáo hội Đức Mẹ Thiêng Liêng, thì một hồng y khác - chắc chắn là Giuliano della Rovere - sẽ chiếm lấy vị trí Giáo hoàng từ ông và hậu quả là cả gia đình ông sẽ lâm vào cảnh đại họa. Chắc chắn họ sẽ bị kết tội tà giáo và bị tra tấn nhục hình để trừ khử. Toàn bộ tài sản mà ông đã lao tâm khổ tứ gây dựng nên bao nhiêu năm nay sẽ bị cướp đi, cả gia đình sẽ trắng tay. Đó sẽ là một số phận còn tệ hại hơn nhiều so với số phận mà cô con gái yêu của ông sắp phải đương đầu.
Sau khi trải qua một đêm không ngủ đi tới đi lui trong phòng, quỳ gối trước trang thờ cầu nguyện ơn dẫn dắt thiêng liêng và xem xét kế hoạch của mình từ mọi phương diện, ông gọi các con Cesare, Juan và Lucrezia đến. Jofre còn quá nhỏ và không phải là đứa thông minh nhất trong đám con của ông. Chiến lược này sẽ chỉ làm cho nó rối trí mà thôi.
Khi có mặt người lạ, Lucrezia sẽ nhún gối chào cha, hôn chiếc nhẫn của ông và quỳ trước ông để tỏ lòng kính trọng, nhưng khi chỉ có mấy cha con với nhau, cô đều chạy đến ông và vòng đôi cánh tay quanh cổ ông, hôn ông trìu mến. Ô, đứa con thân yêu quả là đã làm cho ông xúc động biết bao.
Hôm nay, thay vì ôm lấy cô, Giáo hoàng Alexander lại đẩy cô lui và kéo cô đứng thẳng trước mặt ông.
“Sao thế, Papa?” Cô hỏi, vẻ mặt biểu lộ ngạc nhiên. Mỗi lần tưởng cha buồn lòng về mình, cô đều cảm thấy phiền muộn. Ở tuổi mười ba, đối với một thiếu nữ, cô thuộc dạng cao lớn, và là một mĩ nhân thực sự với làn da trắng như sứ cùng những đường nét tuyệt mĩ trông như được vẽ nên bởi bàn tay tài hoa bậc thầy của Raphael. Đôi mắt sáng của cô ngời lên trí thông minh và mỗi bước đi đều toát lên vẻ duyên dáng. Lucrezia là ánh sáng trong đời cha cô; khi cô hiện diện thì thật khó cho ông để nghĩ đến Thánh kinh hay chiến lược.



“Papa,” Lucrezia lặp lại một cách sốt ruột. “Sao thế? Con đã làm gì khiến cha phật ý?”
“Con phải lấy chồng sớm,” ông nói ngắn gọn.
“Ô, Papa.” Lucrezia thảng thốt kêu lên và quỳ xuống trước mặt cha. “Con chưa thể rời cha bây giờ. Con sẽ không sống nổi đâu.”
Alexander đứng lên, đỡ con gái dậy, ôm vào lòng, và dỗ dành. “Xuỵt, xuỵt,” ông thì thầm. “Lucrezia, cha phải lập liên minh này, nhưng điều đó không có nghĩa con phải đi xa ngay bây giờ đâu. Nào, lau nước mắt đi và để Papa giải thích cho con nghe nhé.”
Cô ngồi dưới chân ông trên một chiếc gối bằng vàng và nghe ông nói. “Gia tộc Sforza ở Milan rất hùng mạnh và cháu của Il Moro, chàng trai trẻ Giovanni vừa mới mất vợ khi cô ta sinh con. Ông ấy đã nhất trí về cuộc hôn nhân. Con biết rằng Papa mong ước những điều tốt đẹp nhất cho tất cả chúng ta. Và con cũng đủ lớn để hiểu rằng nếu không có liên minh với những gia tộc hùng mạnh thì việc Papa ngự trị trên ngai Giáo hoàng sẽ không bền vững đâu. Và nếu thế thì tất cả chúng ta sẽ lâm nguy, và điều đó ta không thể cho phép xảy ra.”
Lucrezia cúi đầu nghĩ ngợi rồi gật đầu tỏ ý hiểu. Trông cô còn rất non nớt.
Khi Alexander đã nói xong, ông đứng lên và bắt đầu đi quanh căn phòng rộng lớn, tự hỏi nên trình bày đề xuất mới của mình như thế nào cho thật tế nhị.
Cuối cùng ông quay về phía con gái và hỏi, “Con đã biết ăn nằm với một người đàn ông như thế nào chưa? Có ai giải thích cho con chưa?”
“Chưa, Papa à,” cô nói và lần đầu tiên cô mỉm cười láu lỉnh với ông, vì cô từng thấy nhiều cô gái điếm làm chuyện ấy…
Alexander lắc đầu ngạc nhiên trước đứa con này của mình. Cô đa cảm giống mẹ, lại còn lanh lợi và biết bông đùa, ngay cả ở cái tuổi còn nhỏ như thế này.
Ông ra hiệu cho các con trai, Cesare và Juan. Hai cậu đến gần và quỳ gối trước mặt ông, cúi đầu tỏ lòng kính trọng. “Đứng lên đi các con,” ông nói. “Chúng ta cần nói chuyện với nhau. Chúng ta phải đưa ra những quyết định quan trọng, vì tương lai của tất cả chúng ta sẽ tùy thuộc vào những gì chúng ta bàn tới trong ngày hôm nay.”
Cesare trầm tư và hướng nội, không thoải mái và vui vẻ như cô em. Ngay từ thời thơ ấu đã có tính ganh đua mạnh mẽ, chàng ta quyết chí phải chiến thắng tất cả bằng mọi cách có thể. Trái lại, Juan lại nhạy cảm hơn khi bản thân bị tổn hại, nhưng hoàn toàn vô cảm với nỗi đau của người khác. Cậu ta có tính nết hung bạo và thường tỏ ra ngạo mạn. Cậu ta không có được chút nét duyên dáng dễ gần của Lucrezia và cũng chẳng có sức hút như người anh. Tuy thế, Alexander lại rất thương yêu cậu con này, cảm thấy ở cậu sự yếu ớt mà Cesare và Lucrezia không có.



“Papa, tại sao người gọi chúng con đến đây?” Cesare hỏi, mắt nhìn qua cửa sổ. Chàng thấy mình tràn đầy sinh lực và hôm nay là một ngày đẹp trời; chàng muốn ra ngoài, đi xuống phố. “Trưa nay ở quảng trường có đám rước lớn đấy, chúng ta nên có mặt…”
Alexander đi đến cái ghế mà ông thường thích ngồi trong góc căn phòng rộng. “Ngồi xuống đây, các con. Ngồi đây với cha nào,” ông nhẹ nhàng bảo chúng. Cả ba đến ngồi kế bên chân ông, trên những chiếc gối lụa lớn.
Ông mỉm cười vung tay phía trên đầu chúng. “Đây là gia đình vĩ đại nhất trong toàn giới Ki-tô giáo,” ông nói. “Chúng ta sẽ thành công bằng những việc làm vĩ đại vì Giáo hội Công giáo La Mã, chúng ta sẽ cứu rỗi nhiều linh hồn và sẽ sống trong lạc phúc khi thực hiện công trình của Chúa. Nhưng như các con đều biết, chuyện này đòi hỏi sự hi sinh. Như chúng ta học được từ gương các vị thánh… những công việc cao trọng đòi hỏi sự hi sinh lớn lao.” Ông làm dấu thánh giá.
Ông nhìn vào Lucrezia, cô đang ngồi trên tấm thảm ở chân ông, dựa vào vai của anh cả Cesare. Juan ngồi gần bên nhưng vẫn tách biệt khỏi họ, đang đánh bóng con dao găm mới được tặng. “Này Cesare và Juan. Cha nghĩ là các con chắc đã biết mùi đàn bà?”
Juan chau mày. “Tất nhiên rồi, Papa. Tại sao cha lại hỏi câu đó?”
“Người ta nên có càng nhiều thông tin càng tốt trước khi có một quyết định quan trọng,” ông nói. Rồi ông quay sang cậu cả. “Còn con, Cesare? Con đã ăn nằm với phụ nữ chưa?”
“Nhiều lắm,” Cesare nói một cách đơn giản.
“Và họ có thấy thỏa mãn không?” Ông hỏi cả hai cậu con.
Juan chau mày, vẻ nôn nóng. “Làm sao con biết được?” Cậu hỏi vặn lại cha, nhếch mép cười. “Con có nghĩa vụ phải hỏi không?”
Giáo hoàng cúi đầu và nói. “Này Cesare, những người phụ nữ khi ăn nằm với con họ có hài lòng không?”
Cesare cười nhẹ và cởi mở trả lời, “Con nghĩ là họ thích đấy, thưa cha. Vì họ đều nài nỉ gặp lại con.”
Giáo hoàng Alexander nhìn vào con gái, cô đang nhìn ông với vẻ hiếu kì pha lẫn háo hức. Rồi ông quay nhìn lại các con trai. “Ai trong hai đứa con đồng ý ăn nằm với em gái mình?”
Juan giờ đây trông xìu hẳn đi. “Papa,” chàng ta nói, “Con chẳng thà đi tu còn hơn.”
Alexander mỉm cười, và nói, “Con còn trẻ người non dạ lắm.”
Nhưng đến lượt Lucrezia chau mày. “Tại sao cha hỏi các anh con mà cha không hỏi con trước? Nếu một trong hai người sẽ ngủ với con, thì chẳng phải là do con chọn hay sao?” Cô hỏi.



Cesare vỗ nhẹ vào tay em gái để trấn an cô, và nói, “Papa, đâu là lí do cho chuyện này? Tại sao cha đưa ra yêu cầu đó? Và cha không thấy lo lắng rằng linh hồn chúng ta sẽ bị đày xuống địa ngục vì hành động như thế hay sao?”
Giáo hoàng Alexander đứng lên và đi ngang qua căn phòng đến cổng vòm của cánh cửa dẫn từ phòng này đến phòng khác. Ông chỉ vào năm bức hình trên mái vòm lớn và hỏi, “Các con không được học về các triều đại Ai Cập hùng cường vẫn có tục lệ anh em ruột lấy nhau nhằm giữ cho dòng máu thuần khiết hay sao? Các con có biết nàng Isis lấy anh ruột mình, vua Osiris, con cả của Trời và Đất? Isis và Osiris sinh ra đứa con gọi là Horus và họ trở thành Ba Ngôi linh thiêng, có trước Chúa Ba Ngôi Ki-tô giáo gồm Cha, Con và Thánh Thần. Họ giúp cho con người thoát khỏi những mưu đồ ác hiểm của quỷ dữ và bảo đảm rằng những linh hồn lương thiện sẽ được tái sinh để sống đời đời. Sự khác biệt duy nhất giữa họ với Chúa Ba Ngôi của chúng ta đó là một trong ba ngôi của họ là phụ nữ.” Đến đây ông mỉm cười với Lucrezia. “Ai Cập là một trong những nền văn minh tiên tiến nhất trong lịch sử nhân loại, và chúng ta nên noi gương họ.”
“Đấy chưa phải là lí do duy nhất, thưa cha,” Cesare nói. “Chúng là bọn dị giáo, tôn thờ những vị thần tà đạo. Chắc là còn điều gì đó cha đã xem xét nhưng chưa nói với chúng con.”
Alexander tiến đến bên Lucrezia, lùa mấy ngón tay vào mái tóc dài vàng óng của con gái và cảm thấy lòng mình đau nhói. Ông không thể nói cho chúng nghe điều ông băn khoăn thực sự: rằng ông hiểu rõ trái tim người đàn bà. Ông biết rằng người đàn ông nào mà cô dâng hiến đầu tiên sẽ là người giành được tình yêu và lòng trung thành của cô. Bởi một khi cô đã trao thân cho anh ta thì cô cũng sẽ trao cả những chiếc chìa khóa của trái tim và linh hồn. Nhưng ông phải tìm ra một phương kế để bảo đảm rằng con gái ông sẽ không dâng chiếc chìa khóa đi vào vương quốc. Vì Alexander sẽ không bao giờ cho phép một người lạ chiếm mất phần lãnh thố tốt nhất của mình, nên đã đến lúc ông phải thu xếp.
“Chúng ta là một gia đình,” ông bảo các con. “Và lòng trung thành đối với gia đình phải được đặt trên tất cả. Chúng ta phải học hỏi lẫn nhau, bảo vệ lẫn nhau - và điều trước tiên, cũng là điều quan trọng nhất - là chúng ta phải gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi nếu chúng ta tôn trọng cam kết đó, chúng ta sẽ không bao giờ bị đánh bại - nhưng nếu lòng trung thành đó của chúng ta nao núng dao động, thì tất cả chúng ta sẽ bị tai họa.” Giờ đây Giáo hoàng quay sang Lucrezia. “Và con đã nói đúng đấy, con gái cưng ạ. Trong trường hợp này quyền chọn lựa phải thuộc về con. Con không thể chọn sẽ kết hôn với ai, nhưng bây giờ thì con được phép chọn người sẽ ăn nằm với con đầu tiên.”
Lucrezia nhìn Juan và nghiêng đầu rụt rè. “Con thà bị gửi vào tu viện còn hơn là chung giường với Juan.” Rồi cô quay sang Cesare. “Anh phải hứa anh sẽ dịu dàng bởi chúng ta sắp dấn thân vào tình yêu, không phải chiến tranh, anh trai yêu dấu ạ.”
Cesare mỉm cười và cúi đầu kiểu bông đùa. “Anh xin hứa. Và em, em gái anh, có thể dạy cho anh về tình yêu và lòng trung thành nhiều hơn là những gì anh từng học hỏi được từ trước đến nay, và điều đó sẽ hữu ích cho anh nhiều đấy.”
“Papa này,” cô nói, quay sang ông bố, đôi mắt mở to. “Cha sẽ ở đấy để chắc rằng mọi chuyện diễn ra tốt đẹp chứ? Con sẽ không đủ can đảm nếu không có cha. Bởi con từng nghe nhiều câu chuyện từ Julia cũng như từ những người hầu gái của con.”
Alexander nhìn cô. “Ta sẽ có mặt ở đó,” ông nói. “Cũng như ta sẽ có mặt vào đêm hợp cẩn chính thức của con. Bởi một hiệp ước sẽ không hiệu lực nếu không được chứng kiến…”
“Cảm ơn, Papa,” cô nói. Nhảy lên đu vào người ông, cô hỏi, “Con có được quần áo đẹp mới và một chiếc nhẫn hồng ngọc làm quà trong dịp long trọng này không?”
“Tất nhiên rồi. Con sẽ có cả hai…”
* * *
Tuần lễ sau, Alexander ngồi trên ngai, mặc bộ trang phục lóng lánh bằng xa-tanh trắng, không mang chiếc mũ miện nặng nề trên đầu. Ông chỉ đội một chiếc mũ nhỏ bằng xa-tanh. Cái bục đặt ngai được dựng cao trên mặt đất, đối diện chiếc giường, tựa vào hậu cảnh thật đẹp tại căn phòng được trang trí lộng lẫy trong căn hộ vừa mới tân trang của nhà Borgia. Cesare và Lucrezia được gọi đến, đám hầu cận phải rời đi cho đến khi Alexander ra hiệu cho họ trở vào.
Giáo hoàng quan sát con trai và con gái trong lúc chúng cởi quần áo. Lucrezia cười khúc khích khi anh cô, Cesare, cuối cùng lột bỏ hết trang phục.
Chàng nhìn lên cô em và mỉm cười. Alexander nghĩ thật lạ lùng làm sao và cũng thật cảm động khi lần đầu tiên ông thấy vẻ dịu dàng thực sự trên khuôn mặt cậu con lớn là lúc cậu ta sắp ăn nằm với em gái mình. Trong những hoàn cảnh khác, cậu là kẻ hiếu chiến, nhưng với cô - ngay cả ở đây - dường như cậu ở dưới quyền cô.
Lucrezia quả thực là cả một kho báu - và không chỉ vì nhan sắc, mặc dầu không có thứ lụa là nào mịn màng hơn những lọn tóc vàng viền quanh khuôn mặt cô. Đôi mắt cô rực sáng đến độ dường như lúc nào chúng cũng giữ kín một bí mật. Giờ đây Giáo hoàng tự hỏi điều gì khiến đôi mắt ấy ngời sáng đến thế. Cơ thể cô rất cân đối, mặc dầu còn hơi mảnh mai với bộ ngực mới nhú và làn da còn phơn phớt non tơ. Quả là một diễm phúc khi được nhìn ngắm, một giấc mơ hoa tuyệt vời cho bất kì người đàn ông nào chiếm hữu được cô.
Còn cậu con trai Cesare của ông? Không có vị thần Olympus nào có được vóc dáng hoàn mĩ hơn. Cao lớn và cường tráng, cậu chính là hiện thân của sức mạnh và tuổi trẻ. Huống chi cậu còn có bao nhiêu phẩm chất ưu việt khác để phục vụ hữu hiệu những mục tiêu vĩ đại cao vời của ông. Nhưng trong lúc này khuôn mặt Cesare trở nên dịu dàng khi cậu nhìn vào cô em đang đứng khỏa thân trước mặt mình.
“Em có đẹp không?” Lucrezia hỏi anh mình. Và khi cậu gật đầu, cô quay đầu về phía cha. “Con đẹp không, Papa? Cha có nghĩ con cũng đẹp như những mĩ nhân mà cha từng thấy?”
Giáo hoàng gật đầu và cười nhẹ. “Con đẹp lắm, con gái ạ. Cưng thật là một trong những tạo vật tuyệt mĩ của Chúa.” Chầm chậm, ông đưa bàn tay phải lên, vẽ dấu thánh giá trong không khí và ban dấu chúc phúc. Rồi ông bảo hai đứa bắt đầu.
Trái tim Alexander đong đầy niềm vui và biết ơn vì những đứa con mà ông yêu thương sâu sắc. Ông tưởng tượng rằng Đức Chúa Cha hẳn cũng đã cảm thấy thế khi người nhìn ngắm Adam và Eve nơi vườn Địa đàng. Nhưng chỉ sau vài giây vui thú ông thấy nhột nhạt với ý nghĩ đó. Phải chăng đó là sự kiêu căng ngạo mạn mà nhiều kẻ ngoại đạo vẫn thường mắc phải, ông tự hỏi, và nhanh chóng làm dấu thánh giá, cầu xin sự tha thứ. Nhưng trông chúng thật hồn nhiên, vô tội, gương mặt sáng bừng tính hiếu kì và lạc thú, ngỡ như đây là lần đầu cũng như lần cuối chúng ghé thăm chốn thiên đàng này. Đấy chẳng phải là mục tiêu của người nam và người nữ hay sao? Để cảm nhận niềm vui của Chúa? Chẳng phải tôn giáo đã gây ra biết bao đau thương rồi sao? Chẳng phải đây là cách duy nhất để vinh danh Đấng Sáng Tạo? Thế gian đầy phản trắc lọc lừa; chỉ có nơi đây trong cung điện của cha chúng, trong Tông Tòa của Ki-tô mà các con ông sẽ thấy bình an và được bảo bọc. Bổn phận của ông là phải chăm lo điều đó. Những khoảng thời gian đầy hoan lạc này sẽ mang chúng vượt qua những thử thách và những gian khó mà cuối cùng chúng phải đối mặt.
Chiếc giường rộng lót lông chim bọc bằng lụa và vải lanh mịn, và khi Lucrezia buông mình lên đó cô reo lên thích thú. Bản năng đàn ông của chàng bị khuấy động, Cesare nhanh chóng nhảy bổ vào em gái, làm cô hoảng hốt. “Papa?” Cô kêu lớn lên. “Papa, Cesare làm con đau…”
Giáo hoàng Alexander đứng lên. “Cesare, phải chăng đó là cách con đã học để ăn nằm với phụ nữ? Rõ khổ! Hẳn nhiên đây là thiếu sót của cha, vì nếu không phải là cha thì ai sẽ chỉ dẫn cho con cách khiến cho Trời Đất giao hòa?”
Cesare ngồi dậy rồi đứng bên giường, đôi mắt long lanh. Chàng cảm thấy bị em khước từ và cha khiển trách, nhưng là một chàng trai trẻ nên nhiệt tình của chàng không hề nguội lạnh.
Alexander đến gần chiếc giường trong lúc Cesare đứng nép sang bên. “Lại đây, con trai,” ông nói với Cesare. “Lại đây, Lucrezia, lại gần mép giường hơn.” Ông tiến về phía cô, và cô thận trọng di chuyển về phía họ. Sau đó với bàn tay mình đặt bên trên bàn tay con trai, ông bắt đầu vuốt ve thân hình con gái, chầm chậm, dịu dàng. Lúc đầu trên mặt cô, rồi lần xuống cổ và ngang qua bộ ngực săn chắc, ông dặn dò Cesare. “Đừng nóng vội, con trai à. Hãy nhẩn nha thưởng thức cái đẹp. Trên thế gian này, không có gì tuyệt mĩ bằng cơ thể một giai nhân, và không gì tuyệt diệu bằng mùi hương của cô khi trọn vẹn hiến dâng. Nhưng nếu con hành sự quá nóng vội con sẽ không thưởng thức được hương vị nồng nàn của ái ân và làm hỏng cả đấy.”
Giờ đây Lucrezia nằm im, đôi mắt lim dim, hơi thở dồn dập bởi cô cảm nhận lạc thú từ đôi bàn tay vuốt ve của anh trai trên cơ thể mình. Khi chàng chạm đến bụng cô và di chuyển xuống thấp hơn nữa, đôi mắt cô mở to, cô cố kêu lên nhưng giọng bị chặn lại bởi cơn rùng mình khi từng cơn sóng khoái lạc nối tiếp nhau lay động đến tận sâu thẳm hồn cô. “Papa?” Cô thì thầm, “Papa? Con có phạm tội không khi cảm thấy thích thú thế này? Con sẽ không xuống địa ngục vì chuyện này chứ?”
“Chẳng lẽ Papa lại đi làm hại đến linh hồn bất tử của con sao?” Ông hỏi cô.
Giáo hoàng Alexander, vẫn còn dẫn dắt bàn tay của Cesare, gần bên Lucrezia đủ để ngửi thấy hơi thở nóng ấm của cô tỏa ra trên mặt ông, và sức mạnh nhục cảm trong ông đáp ứng lại làm ông kinh sợ. Ông đột ngột buông bàn tay Cesare ra và nói với con trai bằng giọng khàn khàn, “Bây giờ con hãy chiếm lấy, nhưng phải từ từ, nhẹ nhàng. Hãy làm một người tình, một người đàn ông, hãy tôn vinh người con gái… nhưng hãy chiếm lấy.”
Run rẩy, ông nhanh chóng quay người đi và băng ngang qua căn phòng, ngồi lại trên ngai. Nhưng khi ông nghe tiếng con gái rên rỉ liên tục vì khoái cảm, ông chợt sợ chính mình. Tim ông đập mạnh và quá nhanh; ông cảm thấy chóng mặt. Trước đây ông chưa từng cảm thấy xúc động mãnh liệt đến thế, một sự kích thích đến thế khi chứng kiến một hành vi sắc dục, và trong một thoáng ngắn ngủi ông ngộ ra. Cesare có thể không sao và vẫn được cứu rỗi bất chấp chuyện này, song chính ông - Người Đại diện của Chúa Jesus trên trần gian - vừa mới thấy con rắn nơi vườn Địa đàng. Và ông đã bị cám dỗ. Đầu óc ông phập phồng lo sợ với ý nghĩ rằng nếu có khi nào ông lại chạm vào cô bé, ông sẽ bị đày đọa đời đời. Bởi, niềm khoái cảm này không hề bình thường, chắc chắn nó sẽ làm ông mất thiên ân.
Vào ngày đó ông cầu nguyện Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần dẫn dắt ông không sa vào cám dỗ lần nữa. “Xin cứu thoát con khỏi tội lỗi,” ông khẩn thiết cầu nguyện, và khi ông nhìn lên lần nữa, hai đứa con ông còn đang nằm trên giường, trần truồng và kiệt sức.
“Này các con,” ông nói, giọng như không còn chút sức lực nào. “Mặc quần áo vào và đến với cha…”
Và khi chúng đến quỳ trước mặt ông, Lucrezia ngước nhìn lên cha với những giọt lệ long lanh trong mắt. “Cảm ơn cha. Con không thể tưởng tượng mình có thể hiến dâng cho người nào khác như vừa rồi mà không chuẩn bị trước. Con đã hơi hoảng sợ, nhưng con cảm nhận được lạc thú vô ngần.” Rồi quay sang anh, cô nói, “Em cũng cảm ơn anh, anh Cesare. Em không thể tưởng tượng mình yêu bất kì người nào khác như em yêu anh trong thời khắc này.”
Cesare mỉm cười nhưng không nói gì.
Và khi Giáo hoàng Alexander nhìn xuống các con mình, ông thấy một biểu cảm trong đôi mắt Cesare khiến ông lo ngại. Ông đã không nghĩ đến chuyện cảnh báo cậu con về một cái bẫy của tình yêu: tình yêu đích thực đem lại uy lực cho người đàn bà và mang đến nguy hiểm cho người đàn ông. Ngay lúc này ông có thể thấy rằng dù hôm nay có thể là một ơn phước cho cô con gái và củng cố triều đại Borgia, nhưng lại có thể là một lời nguyền cho con trai mình.

[/size]
Lưu & chia sẻ:   [url=https://twitter.com/share?url=https://docsach24.co/doc-sach/cha-con-giao-hoang/chuong-4-213472.html&text=Cha Con Gi%C3%A1o ho%c3%a0ng&hashtags=docsach24][/url]


 Chương 4 

trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6

Post by trangd Wed Oct 19, 2022 11:02 pm

[size=19]Vào ngày mà vị hôn phu của Lucrezia, chàng Giovanni Sforza, công tước xứ Pesaro đến thành Rome, Giáo hoàng Alexander cho tổ chức một đám rước linh đình để đón chào. Bởi ông biết rằng Il Moro, chú của Giovanni, sẽ xem hành động này là một dấu hiệu trọng thị, là bằng chứng cho tấm lòng thành của Alexander trong việc liên minh với Milan.
Nhưng Alexander cũng có những suy tính khác trong đầu. Là Đức Thánh Cha ông hiểu trái tim và linh hồn của con dân và ông biết họ thích được mục kích cảnh tượng ngoạn mục, vì điều đó khẳng định với họ lòng độ lượng của ông cũng như lòng độ lượng của Đấng Cha Trên Trời và giúp giảm bớt cái uể oải trong cuộc sống buồn tẻ, vô vị của họ. Dù lễ hội được tổ chức với lí do gì cũng đem lại niềm hi vọng mới cho thành đô và thường giúp ngăn chặn những kẻ tuyệt vọng trong đám thần dân không giết chóc lẫn nhau chỉ vì những tranh cãi lặt vặt.
Cuộc sống của những thần dân kém may mắn hơn thiếu thốn niềm vui đến độ ông cảm thấy có trách nhiệm phải đem lại cho họ vài hạnh phúc nho nhỏ để nuôi dưỡng linh hồn. Vì còn cách gì khác có thể bảo đảm sự hậu thuẫn của họ với giáo triều? Nếu những hạt giống ganh tị cứ mãi được gieo vào trái tim của những con người bị buộc phải chứng kiến bao trò hoan lạc của những kẻ kém xứng đáng nhưng lại nhiều may mắn hơn mình thì làm sao người cai trị đòi hỏi lòng trung thành của họ? Lạc thú phải được chia sẻ, vì chỉ có cách đó mới giữ cho tầng lớp bần cùng khỏi cơn tuyệt vọng.



Vào cái ngày ấm áp, thơm tho đó, một ngày tràn ngập mùi hương hoa hồng, Cesare, Juan và Jofre Borgia cưỡi ngựa đến các cổng đá cao của thành Rome để chào đón công tước Pesaro. Tháp tùng họ là toàn bộ thượng viện và những vị sứ thần Florence, Naples, Venice và Milan trong trang phục vương giả cùng đại diện của Pháp và Tây Ban Nha.
Đám rước sẽ đi theo phái đoàn này khi quay về, ngang qua cung điện của chú chàng, Ascanio Sforza, phó chưởng ấn, ở đó vị công tước trẻ sẽ lưu trú cho đến đêm tân hôn. Sau đó đám rước sẽ tiếp tục qua các đường phố để đến Vatican. Alexander đã dặn dò các cậu con trai cưỡi ngựa ngang qua dinh thự của Lucrezia để nàng có thể nhìn mặt chồng tương lai. Mặc dầu ông bố đã cố gắng trấn an nàng bằng cách hứa rằng nàng có thể ở lại dinh thự riêng ở Santa Maria in Portico với Julia và Adriana trong một năm sau ngày thành hôn chứ không bắt buộc phải đến Pesaro nhưng Lucrezia dường như vẫn bất an. Và Alexander không bao giờ thấy an tâm khi con gái không vui.
Việc chuẩn bị cho đám rước đã được tiến hành từ nhiều tuần trước, còn bây giờ mọi chuyện đã đâu vào đấy cả rồi. Đám hề mặc đồ nhung xanh, vàng chóe, còn đám người làm xiếc tung hứng những cây gậy rực rỡ và tung những quả bóng lòe loẹt bàng giấy bồi lên trên không trong khi các đội nhạc với tiêu, sáo và kèn trumpet tấu vang vang những khúc nhạc rộn ràng để tạo không khí nô nức và làm phấn chấn tinh thần cho đám đông quần chúng thành Rome đang tụ tập dọc bên đường để xem mặt công tước thành Pesaro, người sẽ kết hôn cùng ái nữ của Giáo hoàng.



Nhưng ngay đầu buổi sáng hôm ấy Cesare thức dậy với tâm trạng không vui, lại còn bị cơn nhức đầu dữ dội hành hạ. Chàng thử tìm cớ để được miễn việc phải đi chào đón thằng em rể tương lai, bởi chàng nghĩ đó là một nghĩa vụ chẳng vui thú gì, nhưng ông bố nhất quyết không chấp thuận. “Là người đại diện cho Đức Thánh Cha, con sẽ không được giải trừ khỏi bổn phận, trừ phi con nằm liệt giường chờ chết vì bệnh dịch hay bệnh sốt rét,” Giáo hoàng nói giọng khô khốc, khắc nghiệt. Rồi ông đùng đùng bỏ đi.
Cesare sẽ cãi lệnh nếu như cô em không đến phòng chàng để năn nỉ. Ngay khi nghe tin chàng bị ốm, nàng đã chạy qua đường hầm từ dinh thự riêng. Ngồi trên giường, nàng dịu dàng xoa bóp đầu chàng và hỏi, “Chez, ngoài anh ra, còn ai sẽ cho em biết sự thật về người đàn ông mà mình sắp lấy làm chồng? Em còn có thể tin một ai khác?”
“Crezia, còn thay đổi gì được nữa?” Chàng hỏi. “Em đã được hứa hôn rồi và về chuyện đó anh chẳng có thể làm được gì.”



Lucrezia mỉm cười với anh và lùa các ngón tay qua tóc anh. Nàng nghiêng người, dịu dàng đặt vào môi chàng một nụ hôn và mỉm cười. “Chuyện này đối với anh cũng khó khăn như đối với em đúng không?” Nàng hỏi. “Bởi em ghét ý nghĩ về một người đàn ông khác chung giường với em. Em sẽ khóc và nhắm măt và mặc dầu em không thể ngăn hắn đụng vào người em nhưng em sẽ không thèm hôn hắn đâu. Em hứa đấy, anh à.”
Cesare thở một hơi sâu và quyết định làm như ý cô em muốn. “Anh hi vọng - vì cả hai ta - rằng hắn không phải thứ thú vật,” chàng nói. “Nếu không anh sẽ phải giết hắn trước khi hắn có thể chạm đến em.”
Lucrezia cười khúc khích. “Anh và em, chúng ta sẽ bắt đầu một cuộc chiến thần thánh,” nàng nói, hài lòng về phản ứng của Cesare. “Papa sẽ còn có nhiều chuyện hơn để làm so với hiện nay. Cha sẽ phải bình định Milan một khi anh đã giết Giovanni; sau đó Naples sẽ đến để xin được liên minh với chúng ta. Il Moro có thể bắt anh và đưa anh xuống ngục tối ở Milan để tra tấn. Trong khi Papa đang điều đạo quân của giáo triều đi cứu anh, Venice chắc chắn sẽ mưu toan chinh phục những lãnh thổ của chúng ta. Còn Florence sẽ bảo các nghệ sĩ tài ba nhất vẽ biếm họa bôi nhọ gia đình chúng ta và sai đám tiên tri nguyền rủa chúng ta sa địa ngục đời đời!” Nàng phá ra cười, cười ngặt nghẽo đến nỗi ngã ra giường.
Cesare thích nghe em gái cười. Điều đó khiến chàng quên tất cả những chuyện khác, và còn làm dịu đi nỗi tức giận của chàng đối với cha. Giờ đây cơn nhức đầu của chàng dường như dịu xuống rất nhiều. Và thế là chàng đồng ý đi đón tiếp.
* * *
Nghe âm nhạc của đám rước đang tiến lại gần, Lucrezia chạy lên cầu thang đến tầng hai, đến phòng chính của lâu đài nơi có ban-công trổ ra như bàn tay nắm lại của người khổng lồ. Julia Farnese, cho đến nay đã là nhân tình của Giáo hoàng hơn hai năm rồi, đang giúp Lucrezia chọn một chiếc áo dài bằng xa-tanh màu xanh đậm, tay áo màu kem và vạt áo trên đính châu ngọc. Sau đó, Julia chải tóc cho Lucrezia và kéo các lọn tóc vàng của nàng lên đỉnh đầu, để một ít rơi xõa xuống trán và xuống gáy làm cho nàng thêm thanh nhã.
Mấy tháng nay, Julia cố gắng chỉ dẫn cho Lucrezia về những gì sẽ chờ đợi nàng trong đêm tân hôn, nhưng Lucrezia không quan tâm mấy. Khi Julia giải thích tỉ mỉ nghệ thuật chiều đàn ông thì trái tim và tâm trí Lucrezia đều hướng về Cesare. Mặc dù nàng chưa tiết lộ với bất kì ai nhưng tình yêu nàng dành cho anh mình vẫn chiếm lấy tâm trí nàng mỗi ngày.



Bấy giờ, Lucrezia Borgia bước ra ban-công, nàng ngạc nhiên thấy đám đông đang chờ nàng. Giáo hoàng đã phái nhiều vệ sĩ bảo vệ nàng nhưng họ cũng không thể ngăn những cánh hoa phủ lên người nàng và rải thảm trên ban-công rộng lớn. Nàng tươi cười vẫy tay chào đám thần dân.
Khi Lucrezia nhìn thấy đám rước tiến lại gần, nàng cười lớn với anh hề đang đi qua trước mặt, và vỗ tay vui vẻ khi các nhạc công kèn sáo chơi những khúc nhạc vui tươi rộn rã nhất. Thế rồi, từ phía sau, nàng trông thấy họ.
Trước tiên là anh cả Cesare yêu dấu của nàng, đẹp trai và quý phái, uy nghi trên lưng con bạch mã, lưng thẳng tắp, vẻ nghiêm nghị. Chàng ngẩng đầu lên nhìn em gái và mỉm cười. Juan theo sau, trái lại, không hề để ý đến cô em mà chỉ lo nghiêng người để vơ lấy những cành hoa từ các bà các cô đang réo gọi tên chàng bên đường. Còn cậu em Jofre vẫy tay chào chị với một nụ cười ngây ngô nhưng rạng rỡ niềm vui.
Đằng sau họ nàng thấy người ấy: Giovanni Sforza. Chàng có những lọn tóc đen dài và một hàng ria được tỉa tót khéo, một chiếc mũi thanh tú, dáng người thấp và bè hơn các anh em nàng. Nàng cảm thấy bồn chồn, bối rối khi lần đầu nhìn thấy chàng, nhưng khi chàng nhìn lên ban-công, ghì cương ngựa và chào nàng, nàng nhún gối cúi người đáp lễ theo đúng nghi thức đã được chỉ bảo.
Trong vòng ba ngày nàng sẽ thành hôn, và khi đám rước vừa qua khỏi và tiến đến cung điện của cha nàng, nàng nóng lòng muốn nghe những gì mà Adriana và Julia cần nói về vị hôn phu của nàng. Vì bà Adriana sẽ an ủi và bảo với nàng rằng mọi chuyện sẽ ổn, nên nàng biết chỉ có Julia mới nói cho nàng sự thật.
Khi trở lại dinh thự, Lucrezia hỏi họ, “Cô và chị thấy sao? Có nghĩ rằng hắn ta là một kẻ dữ tợn không?”
Julia cười lớn. “Chị nghĩ rằng hắn ta coi cũng được mắt đấy chứ, mặc dầu đúng là khá to con, có lẽ hơi quá khổ so với em,” cô nói giễu, Lucrezia hiểu ngay cô ta có ý gì. Rồi Julia ôm nàng. “Anh ta sẽ tử tế với em. Chỉ vì Đức Thánh Cha và Cha Trên Trời mà em phải kết hôn. Chuyện này không ảnh hưởng đến cuộc đời em sau này đâu.”
* * *
Khi chọn chỗ ở chính thức trong cung điện Giáo hoàng, Alexander lấy một dãy phòng trống bị bỏ không từ lâu và ra lệnh sửa sang thành những căn hộ tuyệt vời của nhà Borgia. Những bức tường của sảnh tiếp tân riêng của ông, gọi là Sala dei Misteri (Sảnh Huyền Bí) được bao phủ bởi những bức bích họa lớn do họa sĩ yêu thích của ông là Pinturicchio vẽ.
Một trong ba bức tranh này vẽ cảnh Alexander cùng một số người được chọn đang chứng kiến Đức Jesus Thăng Thiên. Mặc chiếc áo choàng đính đầy châu ngọc lấp lánh, ông đặt chiếc mũ miện bằng vàng xuống đất, kế bên mình. Ông đứng ngước nhìn lên như thể đang được ban phước khi Đấng Cứu Thế về trời.



Những bức tranh tường khác vẽ gương mặt của các thành viên nhà Borgia giống như các vị thánh xa xưa, những vị tuẫn đạo và các nhân vật tôn giáo khác: vẻ đẹp rạng rỡ của Lucrezia được ví với nữ thánh Catherine tóc vàng, mảnh mai, thanh thoát, Cesare là hoàng đế ngồi trên ngai vàng, Juan là vị quân vương Đông phương còn Jofre là bé thiên thần ngây thơ. Trên mỗi bức đều sừng sững một con bò rừng lông đỏ xông về phía trước, biểu tượng của gia tộc Borgia.
Trên cánh cửa chính của phòng thứ hai, Pinturicchio vẽ Đức Mẹ Đồng Trinh với tất cả vẻ đẹp thánh thiện. Đức Mẹ là hình ảnh Alexander thích nhất trong các vị thánh thần, vì thế họa sĩ đã dùng Julia Farnese làm người mẫu, thỏa mãn cả hai đam mê của Alexander bằng một bức tranh.
Còn có Sảnh Đức Tin rộng một ngàn mét vuông. Phòng này có mái vòm, với những bức bích họa phủ đầy các cửa nhỏ hình bán nguyệt ở mái nhà và những vòng tròn trang trí đắp nổi trên trần. Mỗi thánh tông đồ đều có một bức bích họa, mỗi vị đều đang đọc một cuốn sách cho các ngôn sứ nhiệt thành rao giảng lời thiêng của Đấng Jesus. Khuôn mặt của các ngôn sứ chính là Alexander, Cesare, Juan và Jofre.
Tất cả những phòng này đều được trang hoàng phong phú với những tấm thảm tinh xảo và đồ trang trí bằng vàng. Ngai của Giáo hoàng được đặt trong Đại Sảnh Đức Tin, trên đó Alexander ngồi tiếp những nhân vật quan trọng. Dọc theo ngai là những ghế đẩu trên đó các nhà quý tộc quỳ để hôn nhẫn và hôn chân Giáo hoàng, và những chiếc đi-văng trên đó các nhân vật quyền thế có thể ngồi trong những cuộc tiếp kiến lâu hơn, vạch ra kế hoạch cho những cuộc Thập tự chinh tương lai hay bàn về chuyện ai sẽ cai trị các thành phố của Ý và trị vì như thế nào.
Công tước xứ Pesaro, Giovanni Sforza được dẫn vào phòng Giáo hoàng. Chàng cúi xuống hôn chân và chiếc nhẫn thiêng liêng của Giáo hoàng. Chàng rất ấn tượng trước vẻ đẹp lộng lẫy của Tòa Thánh Vatican và khối tài sản kếch sù mà chàng sẽ sớm được sở hữu. Bởi đi theo cô dâu trẻ là khoản hồi môn ba mươi ngàn ducat, đủ cho chàng làm đẹp dinh thự của mình ở Pesaro và những hưởng thụ xa hoa khác.
Trong khi Giáo hoàng Alexander ân cần tiếp đón, Giovanni nghĩ về mấy người anh em vợ mới. Đối với hai người anh lớn, chàng thấy gần gũi với Juan hơn là Cesare; Jofre thì còn quá bé nên chưa đáng kể. Cesare dường như chẳng niềm nở với chàng chút nào, nhưng Juan đã hứa đãi công tước một chầu bù khú ra trò trong thành phố trước ngày cưới, thế nên chàng nghĩ chuyện này cũng không quá tệ như mình tưởng. Dĩ nhiên, dù trong tình huống nào, chàng cũng không bao giờ dám cự cãi với chú mình, Il Moro, nếu không muốn Milan thu hồi Pesaro và chàng sẽ mất công quốc của mình cũng nhanh như khi được.
Chiều hôm đó, ngay khi mọi người đến Vatican để dự lễ, Cesare nhanh chóng biến đi. Chàng rời cung điện trên lưng ngựa và phi nước đại ra khỏi thành Rome, hướng về miền quê. Hầu như chàng chưa ở gần Sforza, ấy thế mà chàng đã ghét cay ghét đắng cái thằng con hoang ấy rồi. Hắn ta là đứa lỗ mãng, khoác lác, một tên khốn. Ngây ngô hơn cả Jofre - đến nỗi thế sao? Và còn ngạo mạn bố láo hơn cả Juan. Em gái yêu quý của ta sẽ làm gì với một thằng chồng như thế chứ? Và ta có thể nói gì khi gặp lại Lucrezia chứ?
* * *
Trong khi Cesare kịch liệt bài bác kẻ chẳng mấy chốc nữa sẽ thành em rể của mình, Juan lại bị lôi cuốn về phía hắn ta. Juan ít có bạn bè trong giáo triều. Bạn của chàng chỉ có Djem, ông hoàng Thổ Nhĩ Kỳ, vốn đang làm con tin bên cạnh Giáo hoàng theo yêu cầu của chính hoàng đệ mình, vị Sultan đang trị vì.
Sultan Bayezid đã dàn xếp với Giáo hoàng Innocent khi ông ta sợ những cuộc Thập tự chinh Ki-tô giáo được tổ chức để lật đổ ông ta dưới chiêu bài giành lại ngôi báu cho người kế thừa chính đáng là Djem, anh của ông ta. Đổi lấy việc giữ Djem làm con tin ở Vatican, Giáo hoàng được Sultan trả công bốn mươi ngàn ducat mỗi năm. Khi Giáo hoàng Innocent băng hà, Alexander tiếp tục giữ lời hứa, đối xử với vị hoàng tử như khách danh dự của giáo triều. Bởi còn cách nào để làm đầy các két sắt của Giáo hội Công giáo La Mã hay hơn là lấy tiền của bọn Thổ Nhĩ Kỳ ngoại đạo?



Ông hoàng ba mươi tuổi Djem, da ngăm ngăm và có vẻ không thân thiện với người dân La Mã, luôn mang khăn quàng đầu, với bộ râu đen cong vểnh lên, nhất quyết mặc trang phục phương Đông của mình khi ở Vatican, và chẳng bao lâu Juan, khi không phải là những dịp chính thức, cũng bắt đầu ăn mặc theo kiểu ông ta. Mặc dầu Djem gần như gấp đôi tuổi Juan nhưng họ bắt đầu đi đâu cũng có nhau và gã hoàng tử này gây ảnh hưởng lớn lên cậu con được chiều quá hóa hư của Giáo hoàng. Alexander chấp nhận tình bạn của họ không chỉ vì nguồn lợi tức mà Djem mang đến cho Vatican mà còn vì sự bầu bạn với ông hoàng dường như mang lại nụ cười trên khuôn mặt Juan, vốn thường sưng sỉa. Nhưng Cesare thì thấy bực không chịu được khi phải ở gần cặp bài trùng này.
Đêm trước ngày hôn lễ, Juan mời Giovanni Sforza cùng đi với mình và Djem vào Rome viếng các hàng quán và ngủ với gái làng chơi. Giovanni đồng ý ngay tắp lự. Ông hoàng Djem và công tước xứ Pesaro xem ra ăn ý với nhau lắm lắm, ăn uống, chuyện trò với nhau thân mật. Nhưng người dân thành Rome cố tránh xa đám con cái đại gia hống hách này.
Nhưng với các em gái làng chơi thì lại là chuyện khác. Juan là mối ruột, nhiều em còn cá độ với nhau xem em nào ngủ với chàng nhiều nhất. Có nhiều điều tiếng xầm xì rằng Juan cũng là người tình đồng tính của Djem, nhưng với các nàng kiều nữ giang hồ kiếm miếng ăn hằng ngày bằng việc ngủ với đám đại gia thì các em đâu cần để ý làm chi chuyện đa đoan của thiên hạ, vì mỗi khi đến mua vui, anh chàng đều chi rất sộp.
Một trong các cô em mà Juan thường gặp là một cô nàng mới non mười lăm tuổi với mái tóc dài đen tuyền và hai hàng lông nheo dày, cong vút. Nàng tên là Avalona, con gái của một trong những chủ quán đèn mờ. Nàng thực sự mất anh Juan. Nhưng trong cái đêm mà ba chàng trai từ Vatican đến thành phố, Juan trước tiên hiến tặng Avalona cho chú em rể, sau đó cho anh Djem. Hai người mang cô nàng lên trên gác để mây mưa, trong khi Juan ngước mắt nhìn nhưng vì quá say xỉn nên chàng ta không nhận ra được tâm tình của cô nàng. Thay vào đó, khi đến lượt chàng, Juan trông chờ nàng sẽ nhiệt tình và cưng chiều hết ý như mọi khi, nhưng nàng lại quay đi, từ chối hôn chàng, sẵn tính nhạy cảm quá mức, Juan nổi điên lên vì nghĩ nàng thích thằng em rể hơn mình. Chàng tát cô nàng vì hành động sỉ nhục này, cô nàng không thèm nói chuyện với chàng nữa. Thiếu gia ta mặt sưng mày sỉa trên suốt chặng đường quay về tư dinh của cha. Trong khi đó, cả hai chàng Giovanni Sforza lẫn hoàng tử Djem vẫn cảm thấy thỏa mãn với một buổi tối vui vẻ nên chẳng thèm để ý làm chi chuyện bực dọc của Juan.
* * *
Chớp mắt đã đến ngày cử hành hôn lễ. Lucrezia trông thật vương giả trong chiếc áo dài nhung đỏ viền lông thú, mái tóc vàng sáng được rắc vàng và được điểm hồng ngọc cùng kim cương. Julia Farnese mặc chiếc áo dài xa-tanh màu hồng giản dị, làm sáng lên nhan sắc thanh nhã của nàng. Còn Adriana chọn chiếc áo dài nhung trơn màu xanh đậm để tránh tranh sắc với vạt áo đính hồng ngọc trên chiếc áo dài của Lucrezia. Chỉ có chú rể Giovanni Sforza mặc chiếc áo với cổ dày bằng vàng đi mượn, anh trai Juan của nàng và anh bạn Djem của chàng ta là ăn mặc phô trương hơn. Cả ba mang khăn đội đầu bằng xa-tanh màu kem và những khăn choàng vai thêu chỉ vàng, lộng lẫy hơn cả trang phục của cô dâu và Giáo hoàng.
Alexander đã chọn Juan dìu cô dâu tiến vào lễ đường và nàng biết rằng Cesare hẳn rất tức giận. Lucrezia nghĩ thế này lại may, vì nàng biết chắc rằng Cesare sẽ không bao giờ dìu nàng đến lễ đường đàng hoàng thế này. Nàng tự hỏi Cesare có đến dự hay không, mặc dầu anh khó lòng lánh mặt khi đã có lệnh của cha. Nếu không đồng ý, nàng biết Cesare sẽ lại phi ngựa nước đại phóng về miền quê. Nhưng nàng cầu nguyện lần này chàng sẽ không làm thế, bởi Cesare chính là người nàng mong muốn có mặt ở đây nhất, chính chàng là người nàng yêu thương nhất.



Đám cưới diễn ra trong Đại Sảnh của Tòa Thánh Vatican bất chấp những lời phản đối của các vị lãnh đạo Giáo hội thủ cựu và những hồng y khác, họ tin rằng những sảnh đường thiêng liêng chỉ được dành cho những người liên quan tới giáo vụ của Giáo hội mà thôi. Nhưng Giáo hoàng Alexander đã muốn Lucrezia làm đám cưới ở Vatican nên đương nhiên phải là như thế. Nếu không thì cái uy và thể diện của Giáo hoàng để vào đâu đây?
Trên bục cao đặt ngay phía trước sảnh lớn là ngai của Giáo hoàng, sáu ghế ngồi bằng nhung đỏ màu rượu Burgundy mỗi bên dành cho mười hai vị hồng y tân cử của Giáo hoàng. Trong nhà nguyện riêng của Giáo hoàng, nhỏ hơn và thưa thớt hơn so với Nhà Nguyện Chính thuộc Giáo đường Thánh Peter, ông đã lệnh đặt những hàng đuốc cao bằng bạc và bằng vàng, thắp sáng lên trước các bức tượng thánh khổng lổ bằng cẩm thạch để tăng vẻ diễm lệ hai bên trang thờ.
Vị giám mục chủ tế, mặc lễ phục buông dài, chiếc mũ miện bằng bạc trên đầu, hát những bài kinh bằng tiếng La-tinh và ban lời chúc phúc thiêng liêng cho cô dâu và chú rể.
Hương trầm tỏa ra trong khi hai vợ chồng được ban phúc lành dường như đặc biệt hăng nồng, món quà tặng từ phương Đông của Sultan Bayezid II, em hoàng tử Djem, được mang đến cách đây vài ngày… Làn khói trắng dày làm gắt cổ họng Lucrezia, buộc nàng phải giấu một tiếng ho sau chiếc khăn tay. Đối với Lucrezia, hình tượng Chúa Jesus bị đóng đinh trên cây thánh giá khổng lồ bằng gỗ cùng thanh gươm lớn giữ lòng chung thủy mà vị giám mục đặt trên đầu nàng trong lúc cặp tân hôn trao nhau lời thề nguyền dường như là điềm gở.
Cuối cùng nàng cũng nhìn thấy anh Cesare nơi lối vào nhà nguyện. Nàng đã lo lắng khi thấy chỗ ngồi của chàng trước trang thờ cùng với các hồng y khác bị bỏ trống lộ liễu khiến không ít người thắc mắc.
Cả đêm hôm qua, Lucrezia quỳ gối cầu nguyện Đức Mẹ, xin người tha thứ, sau khi lẻn vào đường hầm, đến phòng của Cesare để chàng lại chiếm lấy nàng một lần nữa. Nàng thắc mắc tại sao mình lại cảm thấy vui sướng đến thế khi làm chuyện ấy với anh mình mà lại cảm thấy kinh sợ với ý tưởng làm tình cùng người khác. Nàng còn chưa biết gì về con người sắp là chồng nàng. Nàng chỉ mới thấy anh ta một lần, từ ban-công nhà nàng và khi hai người ở cùng nhau trong phòng ngày hôm trước đó, anh ta chẳng nói một lời nào với nàng hay nhận ra sự có mặt của nàng.
Giờ đây khi cùng quỳ gối trên những chiếc ghế đẩu nhỏ bằng vàng trước trang thờ và nghe những lời đầu tiên từ người phối ngẫu với mình: “Tôi sẽ lấy người phụ nữ này làm vợ”, nàng chợt nghĩ giọng nói chàng ta sao mà vô duyên tệ, không làm nàng hài lòng chút nào.
Như thể trong cơn mê, Lucrezia đồng ý nhận anh ta làm chồng. Nhưng ánh mắt và trái tim nàng cứ hướng về Cesare, trong trang phục giáo sĩ màu đen trang nghiêm, đang đứng bên cậu em Juan. Chàng chẳng hề nhìn nàng.
Sau đó, tại một đại sảnh của Vatican - Sala Reale (Sảnh Hoàng Gia) - Lucrezia Borgia lộng lẫy giữa chiếc bàn được đặc biệt kê cao. Kế bên nàng là chàng rể Giovanni, nữ giám hộ Adriana, và Julia Farnese mà nàng chọn làm phù dâu. Cháu gái của cố Giáo hoàng Innocent, Battestina cũng được ngồi cùng bàn với những cô phù dâu khác, nhưng ba anh em trai của nàng ngồi ở một chiếc bàn phía bên kia phòng. Nhiều người khách ngồi trên những chiếc gối để trên sàn nhà. Quây tròn quanh vành ngoài đại sảnh là một dãy các bàn ăn cỡ lớn chất đầy đồ ăn thức uống, bánh kẹo. Khi khách khứa ăn uống xong, trung tâm của sảnh được dọn sạch để các nghệ sĩ diễn kịch. Sau đó, các vũ công và các ca sĩ sẽ múa hát giúp vui.
Nhiều lần Lucrezia nhìn sang chú rể, nhưng anh ta vẫn lơ nàng, chỉ tranh thủ ngốn thức ăn và nốc rượu ào ào vào mồm. Trông mà lợm giọng, nàng quay nhìn chỗ khác.
Hiếm khi Lucrezia nhớ đến mẹ, nhưng hôm nay là một ngày vốn được coi là trọng đại trong đời người con gái. Giờ đây, khi Julia đã là tình nhân của Giáo hoàng thì đâu còn chỗ cho Vanozza, thân mẫu nàng, nơi cung điện này.
Khi liếc nhìn lại người chồng mới cưới, nàng tự hỏi sau này, mình có thể cam chịu cái bộ mặt khó ưa này hay không. Ý nghĩ rời xa gia đình ở Rome để đến sống với anh ta ở Pesaro khiến nàng chìm trong tuyệt vọng và thầm biết ơn lời hứa của cha khi cho phép nàng một năm sau mới phải rời nhà.
Vây quanh là không khí vui vẻ và những tiếng cười rộn rã của khách khứa, Lucrezia vẫn cảm thấy cô đơn tột độ. Nàng không thấy đói, dẫu vậy, nàng vẫn nhấp vài ngụm vang đỏ rót trong chiếc cốc bằng bạc, rồi chẳng mấy chốc, nàng thấy váng vất. Nàng bắt đầu tán gẫu với các cô phù dâu và cuối cùng cũng hòa mình vào bầu không khí vui vẻ. Bởi xét cho cùng thì đây cũng là một buổi yến tiệc và nàng chỉ mới mười ba.
Sau đó, Giáo hoàng Alexander thông báo rằng sẽ có một buổi dạ tiệc tại các căn hộ riêng của ông, ở đó các món quà cho cô dâu và chú rể sẽ được trình ra. Trước khi rời Đại Sảnh ở Vatican để về những phòng riêng của mình, ông dặn đám gia nhân ném số kẹo còn lại từ ban-công xuống cho đám đông dân chúng đứng ở quảng trường bên dưới để họ được hưởng tí hương hoa lễ lạt.
* * *
Đã quá nửa đêm, Lucrezia mới có cơ hội thưa chuyện với cha. Ông đang ngồi một mình tại bàn làm việc, bởi hầu hết khách khứa đã ra về, chỉ còn mấy anh em của nàng và vài vị hồng y ngồi đợi nơi tiền sảnh.
Hơi ngập ngừng, Lucrezia tiến lại gần Giáo hoàng, bởi nàng không muốn mạo phạm ông, nhưng chuyện này rất quan trọng, không thể đợi được. Nàng quỳ trước mặt ông và cúi đầu chờ cha cho phép mới dám thưa trình.
Giáo hoàng Alexander mỉm cười để khích lệ nàng. “Nào, con ngoan của cha. Nói với Papa con có gì bận lòng.”
Lucrezia nhìn lên, đôi mắt nàng long lanh nhưng khuôn mặt lại nhợt nhạt vì những sự kiện trong ngày. “Papa,” nàng nói rất nhỏ, gần như không nghe được. “Papa, con có phải vào phòng tân hôn với Giovanni ngay đêm nay không? Cha có buộc phải chứng kiến việc thành thân sớm đến thế không?”
Giáo hoàng ngước mắt lên trời cao. Ông cũng từng bỏ ra nhiều giờ để suy ngẫm về chuyện này. “Nếu không phải bây giờ, thì khi nào?” Ông hỏi con.
“Hoãn lại một chút ạ,” nàng nói.
“Hãy vượt qua những điều không như ý càng sớm càng tốt,” ông nói, mỉm cười dịu dàng với con gái. “Sau đó con có thể tiếp tục sống cuộc đời mình mà không còn thanh gươm nào treo lơ lửng trên đầu con nữa.”
Lucrezia hít vào một hơi sâu rồi thở dài. “Anh Cesare có phải hiện diện không?” Nàng hỏi.
Giáo hoàng Alexander nhíu mày. “Chuyện đó có thành vấn đề không?” Ông hỏi. “Miễn là có cha ở đó. Để hôn ước trở thành hiệu lực, phải có ba người làm chứng.”
Thế là Lucrezia gật đầu và nói quả quyết, “Con thích anh ấy không có ở đó hơn.”
“Nếu đó là ý muốn của con,” Giáo hoàng nói, “thì ta cứ làm theo như thế.”
Cả hai người, Giovanni và Lucrezia đều có phần miễn cưỡng khi bước vào phòng tân hôn: phần chàng vì còn tưởng nhớ đến người vợ đầu mới mất, phần nàng vì cảm thấy ngại ngùng bối rối khi bị săm soi nhìn ngắm và không muốn cho phép bất kì ai, ngoài Cesare, chạm vào người nàng. Giờ đây, nàng cảm thấy choáng váng đến độ chẳng quan tâm đến cái gì nữa. Nàng dõi mắt tìm kiếm anh mình nhưng chàng đã lỉnh đi xa, và thế là nàng nốc vội thêm ba cốc rượu vang trước khi gom đủ can đảm để làm điều nàng biết mình phải làm.
Trong phòng, đám gia nhân giúp nàng và Giovanni trút bỏ xiêm y và cả hai nhanh chóng chuồn vào dưới tấm chăn bằng xa-tanh trắng, cẩn thận không để cho da thịt họ chạm vào nhau trước khi những người làm chứng đến.
Khi bước vào phòng, Giáo hoàng ngồi vào chiếc ghế bọc nhung, đối diện một bức thảm thêu thật lớn tái hiện các cuộc Thập tự chinh, ông tập trung tâm trí nhìn vào đó và cầu nguyện.
Hai tay ông cầm chuỗi tràng hạt bằng châu ngọc. Chỗ ngồi thứ nhì dành cho hồng y Ascanio Sforza và chỗ thứ ba dành cho người anh của nàng Julia, hồng y Farnese, người phải bị sỉ nhục gọi là “hồng y núp váy đàn bà” sau khi Giáo hoàng Alexander làm lễ thụ phong cho anh ta.
Giovanni Sforza không nói lời nào với Lucrezia; chàng ta chỉ nghiêng người qua bên trên nàng, mặt áp sát vào mặt nàng, bàn tay thô bạo chộp lấy vai nàng để kéo nàng về phía mình. Chàng ta tìm cách hôn nàng, nhưng nàng quay mặt qua chỗ khác, nấp vào dưới cổ chàng ta. Chàng ta hôi như bò. Rồi khi chàng ta bắt đầu dùng tay vụng về dạo những cung đàn ngô nghê trên thân nàng thì nàng thấy rùng mình ghê tởm. Trong một thoáng, nàng sợ rằng bao tử mình sẽ nhộn nhạo cả lên và hi vọng có cái ống nhổ nơi chân giường. Bỗng dưng, nàng thấy lòng buồn vô tận, nàng nghĩ mình sẽ khóc mất. Nhưng vào thời điểm chàng ta cưỡi lên người nàng, nàng chẳng cảm thấy gì cả. Nàng nhắm mắt lại và đưa tâm tưởng mình đi xa, đến cõi trời riêng, nơi nàng chạy băng qua những hàng lau sậy cao thật cao, rồi lăn mình trên thảm cỏ xanh rờn mềm mại như nhung của vùng Ngân Hồ, nơi duy nhất nàng cảm thấy tự do.
* * *
Sáng hôm sau, khi Lucrezia chạy ùa đến để đón Cesare lúc chàng rảo bước từ Điện Vatican đến chuồng ngựa, nàng có thể thấy ngay là chàng đang phiền muộn. Nàng cố trấn an nhưng chàng không còn lòng dạ nào để nghe. Thế là nàng chỉ biết đứng lặng yên bất động nhìn chàng thắng yên ngựa ra đi.
Hai ngày sau Cesare mới quay về. Chàng bảo với em gái rằng quãng thời gian nơi miền quê giúp chàng suy nghĩ kĩ về tương lai của mình và về nàng. Chàng nói mình đã tha thứ cho nàng, nhưng nghe mấy lời đó khiến nàng nổi điên lên. “Tha thứ cái gì? Em phạm lỗi gì để cần anh tha thứ? Em đã làm điều em phải làm, cũng như anh vậy thôi. Anh vẫn luôn than vãn về chuyện phải khoác chiếc áo hồng y,” nàng nói. “Nhưng em thà làm hồng y còn hơn phải làm đàn bà!”
Cesare đốp chát lại, “Cả hai chúng ta đều phải làm những gì mà Đức Thánh Cha muốn chúng ta phải làm, bởi ta thà làm người lính hơn làm hồng y! Vậy nên không ai trong hai ta có được cái chúng ta muốn!”
Cesare hiểu rằng mặt trận quan trọng nhất mà chàng phải chiến đấu là thực hiện cái chí riêng mình hằng ấp ủ. Bởi tình yêu có thể lấy mất ý chí mà không cần đến vũ khí. Và Cesare thực sự yêu thương cha mình. Tuy vậy chàng đã nghiên cứu những chiến thuật của cha khá lâu đủ để biết ông có thể làm đến những chuyện gì và chàng biết rằng bản thân mình sẽ không bao giờ hạ mình làm những chuyện phản trắc. Trong suy nghĩ của Cesare, chuyện cướp đi của cải, tài sản, hay ngay cả mạng sống vẫn không thể kinh khủng bằng việc tước đoạt ý chí tự do của người khác. Bởi không có ý chí tự do, con người chỉ còn là một con rối của những nhu cầu bản năng, một con thú kéo đồ nặng tuân phục tiếng vút của ngọn roi trong tay người khác. Và chàng đã thề mình sẽ không bao giờ làm con thú đó.
Mặc dầu Cesare hiểu dụng ý của cha khi yêu cầu chàng ăn nằm với Lucrezia, chàng nghĩ mình cũng phải gánh luôn nhiệm vụ yêu nàng. Sau lần ái ân đầu tiên đó, chàng đánh lừa bản thân tin rằng đó là lựa chọn của chàng. Nhưng vẫn còn một con bài chưa lật. Lucrezia đã yêu với một trái tim trọn vẹn đủ để thuần hóa con thú hoang dã nhất, và như thế, dẫu không hay biết, nhưng nàng đã trở thành ngọn roi được ông bố sử dụng.
Lucrezia bắt đầu thổn thức, Cesare ôm lấy nàng và cố an ủi. “Rồi sẽ ổn thôi, Crezia,” chàng vỗ về. Chàng đứng lặng một lúc lâu, vuốt ve những lọn tóc vàng của nàng, ôm lấy nàng. Cuối cùng chàng lau nước mắt cho nàng và nói, “Em đừng bận tâm nhiều với con chim cút ba chân Sforza đó. Vì bất chấp tất cả, chúng ta vẫn sẽ mãi có nhau trong đời.”


[/size]

 Chương 5 

trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6

Post by trangd Wed Oct 19, 2022 11:06 pm

[size=19]Ludovico Sforza, nổi tiếng với biệt danh Il Moro là người nắm quyền lực thực sự ở đại thành bang Milan. Ông ta nắm quyền bính trong tay dù chỉ là nhiếp chính, không phải công tước vì giành được quyền lực từ tay đứa cháu hèn yếu.
Mặc dù danh xưng Il Moro làm người ta liên tưởng đến màu da đen nhẻm, song thật ra ông là người cao ráo, bảnh bao với vẻ ngoài hơi rám nắng của dân vùng Bắc Ý, thông minh và nhạy cảm với thế giới tinh thần và trí tuệ. Có thể nói rằng ông say mê thần thoại cổ đại hơn tôn giáo. Ông tự tin và vững vàng khi mọi chuyện diễn biến tốt nhưng dễ lung lay khi gặp chuyện khó khăn. Ông giành được sự kính trọng của thần dân, và mặc dù đôi khi ông có phần khinh suất và chệch choạc trong đường lối chính trị, song ông là một nhà cai trị nhân từ. Ông đánh thuế người giàu để lấy tiền lo chỗ ở và bệnh viện cho người nghèo.
Người dân xứ Milan, một thành phố được coi là cái nôi của khám phá, vồn vã chào đón luồng văn hóa mới mang tên chủ nghĩa nhân văn, và chính Il Moro, cùng với phu nhân của ông, Beatrice d’Fste, đã làm nhiều việc để cải thiện điều kiện sống của thành bang. Họ cho tân trang các lâu đài, sơn quét lại những căn nhà buồn tẻ bằng màu sắc sáng sủa của nền nghệ thuật mới và tẩy uế đường phố để giới quý tộc không phải hít thở thứ không khí nồng đậm mùi chanh hay mùi cam cắt dở. Hơn thế nữa, ông còn chịu trả lương cao bổng hậu để mời những người thầy tài giỏi nhất đến dạy ở các đại học, vì ông đánh giá cao tầm quan trọng của giáo dục.



Chính bà vợ của Il Moro - Beatrice d’Este xứ Ferrara, một vị nữ lưu xinh đẹp và đầy tham vọng - từ nhiều năm trước đã thúc giục phu quân mình giành lấy vương miện từ đứa cháu Giovanni. Bởi sau khi có con trai, bà Beatrice lo ngại rằng hậu duệ của mình sẽ không được thừa kế vương quyền một cách hợp pháp.
Mười ba năm qua, Ludovico cai trị với tư cách Nhiếp chính mà không gặp sự phản đối nào từ công tước Sforza cháu mình. Xứ Milan đã phát triển thành một thành phố đầy tính nghệ thuật và văn hóa. Thế rồi, Gian thành hôn với một phụ nữ trẻ tính khí nóng nảy và quả quyết: Avia xứ Naples, cháu gái của ông vua đáng sợ Ferrante.
Khi Avia có hai con trai, nàng tin chắc rằng chính vì II Moro mà các con mình bị buộc phải sống kiếp thường dân, nàng than phiền với vị công tước chồng mình. Nhưng chàng ta hoàn toàn hài lòng ủy quyền cho ông chú cai trị Milan và không hề phản kháng. Giờ đây Avia không có chọn lựa nào khác. Nàng đem chuyện bất bình trình lên vua Ferrante. Nàng viết hết bức thư này đến bức thư khác và phái sứ giả ngày ngày mang chúng đến Naples. Cuối cùng Ferrante nổi trận lôi đình, phần vì tội coi thường uy danh của hoàng gia ông, phần vì những lá thư phiền toái liên tục gửi đến. Dù gì thì ông cũng là vua mà, và một ông vua không thể dung thứ việc cháu gái mình phải chịu sỉ nhục như vậy. Và thế là ông quyết định phải báo thù Milan và khôi phục vị trí xứng đáng của Avia trên ngai vàng.



Lúc bấy giờ, được mật báo về cơn thịnh nộ của vua Ferrente và e sợ chiến thuật tàn nhẫn của ông ta, Il Moro xét lại vị thế của mình. Sức mạnh quân sự của Naples đã trở thành huyền thoại - một đội quân dũng mãnh và thiện chiến. Milan sẽ không thể chống trả nếu không được trợ giúp. Thế rồi, bỗng đâu như một món quà quý giá từ trên trời rơi xuống, Il Moro nhận được tin là vua Charles của Pháp đang chuẩn bị binh lực để xâm lăng nhằm đòi lại vương miện xứ Naples. Il Moro thực hiện phương sách quyết liệt, phá vỡ truyền thống và tức thời gửi lời mời cho vua Charles, cho phép ông ta và đạo quân của mình được yên ổn đi ngang qua Milan trên con đường nam tiến chinh phục Naples.
* * *
Tại Vatican, Giáo hoàng Alexander đánh giá lại vị trí chính trị của mình giữa tình hình Pháp sắp đem quân đi xâm lăng và tầm nhìn thiển cận của Il Moro. Ông đã cho gọi Cesare ngay từ sáng sớm hôm ấy để bàn luận những chiến thuật mới sau khi Duarte Brandao đến phòng ông thông báo về mối đe dọa mới của giáo triều.
“Tôi vừa được biết,” ông ta giải thích, “rằng vua Ferrante xứ Naples đã gửi một thông điệp cho người anh em họ của ông ta, vua Ferdinand của Tây Ban Nha, bày tỏ mối ưu tư của ông ta về chuyện Đức Thánh Cha ủng hộ Il Moro, và vị thế của Vatican đối với Milan hiện nay khi nước Pháp đang chuẩn bị xuất quân.”



Cesare gật đầu tỏ ra am hiểu tình hình. “Ông ta hẳn đã nghe hôn ước giữa em gái tôi với Giovanni Sforza. Và ông ta lấy làm phiền về chuyện đồng minh giữa chúng ta với Milan.”
Alexander gật đầu. “Hẳn là thế. Vậy còn phản ứng của vua Ferdinand thì sao?”
“Lúc này, ông ta từ chối can thiệp vào những chuyện nội bộ của chúng ta.” Duarte phân tích.
Giáo hoàng Alexander cười lớn. “Ông ấy là người biết trọng danh dự, có thủy có chung mà. Ông ấy hẳn vẫn nhớ rằng chính ta là người đã ban đặc miễn cho phép ông ta kết hôn với cô em họ trực hệ về huyết thống, Isabella xứ Castille. Nhờ công bố đó mà hai vùng lãnh thổ Tây Ban Nha và Castille hợp nhất, mở rộng đế quốc Aragon.”
“Sẽ là khôn ngoan nếu ta gửi một sứ thần đến Naples với một đề nghị thỏa hiệp…” Duarte gợi ý. “Và tái cam kết với ông ấy về lòng trung thành của chúng ta với Tây Ban Nha và với vương triều Aragon.”
Alexander đồng ý. “Chúng ta cũng đề xuất với Ferrante một liên minh qua hôn nhân. Bởi Milan được phần mà Naples lại không có thì coi sao được?”
“Thưa cha, con rất tiếc là về khoản này, con không làm được gì cho cha.” Cesare nói với vẻ tự hân thưởng. “Bởi vì, xét cho cùng, con vẫn là một hồng y của Giáo hội Công giáo La Mã!”
Khuya hôm đó, Alexander, một mình trong phòng, nhìn trừng trừng vào bầu trời đêm tối đen và trầm tư mặc tưởng về nhân tâm thế đạo. Là Đức Thánh Cha, ông đi đến một kết luận lạnh người: sự sợ hãi làm cho con người hành động chống lại ngay cả những quyền lợi thiết thân nhất của mình. Sợ hãi biến họ từ con người của lí trí thành kẻ khờ khạo ẻo lả; nếu không phải thế thì tại sao Il Moro lại bắt tay với nước Pháp trong khi chẳng có cơ may chiến thắng nào dành cho ông ta? Chẳng lẽ ông ta lại không thể dự đoán được rằng khi một đạo quân nước ngoài đi vào thành phố, mọi người dân đều gặp nguy hiểm? Phụ nữ, trẻ em, đàn ông đều rơi vào hiểm họa. Nghĩ đến đó, Giáo hoàng thở dài. Chính vào những thời điểm như thế này mà ông cảm thấy ơn bất khả ngộ là một niềm an ủi vô giá.
* * *
Trong thời khắc sóng gió nhất, một số kẻ hành xử tàn độc hơn cả. Cái ác chảy trong từng nhịp đập, qua từng mạch máu, giúp mang lại sinh khí cho chúng và đánh thức mọi giác quan. Do vậy, khi hành hạ tra tấn đồng loại, chúng cũng có niềm khoái cảm y hệt như khi làm tình. Chúng bám chặt vào một đấng Thượng Đế toàn năng, chuyên trừng phạt mà tự chúng dựng nên và sự cuồng tín mê muội đó khiến chúng sống trong ảo tưởng. Vua Ferrante xứ Naples là một trong số đó. Vô phúc cho ai là kẻ thù của hắn, vì với hắn, đày đọa tinh thần vui thú hơn hành hạ thể xác.
Hắn là một kẻ thấp bè bè nhưng to khỏe, da ngăm màu ô-liu, hai hàng lông mày chổi xể đen sì, tua tủa vô trật tự, rậm rạp đến độ che khuất cả đôi mắt khiến hắn càng đầy vẻ đe dọa. Đám lông lá rậm rì đó phủ khắp cơ thể hắn, thỉnh thoảng ló ra từ cổ áo, tay áo trên bộ trang phục vua chúa, trông như lông những loài thú hoang. Khi còn trẻ hắn đã nhổ phăng hai cái răng cửa lúc mắc phải một căn bệnh truyền nhiễm chết người. Về sau hắn đã lệnh cho thợ kim hoàn cung đình làm cho hắn hai chiếc răng mới bằng vàng. Hắn ít khi cười, nhưng một khi đã cười, nét ác độc lộ rõ trên gương mặt. Khắp cả đất Ý thiên hạ râm ran đồn rằng Ferrante đi đâu cũng không thèm mang theo vũ khí, không cần vệ sĩ tháp tùng, vì với những chiếc răng vàng đó hắn dư sức cắn xé thịt xương kẻ thù.



Là nhà cai trị xứ Naples, vùng lãnh thổ hùng cường nhất trên đất Ý lục địa, Ferrante khiến người người kinh hãi… Khốn nạn cho kẻ thù nào rơi vào tay hắn: hắn cho xiềng họ vào trong những cái cũi, còn hắn bước nghênh ngang qua ngục tối mỗi ngày, ngoác miệng hể hả trước “vườn thú” của mình. Và khi tù nhân đã tơi tả thịt xương, cuối cùng phải từ bỏ ý chí rồi hồn lìa khỏi xác, Ferrante lại ra lệnh ướp xác rồi đặt lại vào trong cũi, để nhắc nhở cho những ai còn muốn sống rằng dù tim họ có ngừng đập, trò vui của hắn vẫn chưa chấm dứt. Ngay cả những đầy tớ trung thành nhất của hắn cũng không thoát khỏi cơn khát máu hung tàn. Hắn tước đoạt từ họ mọi thứ có thể: cả quyền lợi lẫn tiền bạc, và rồi phanh thây trong lúc họ say ngủ, vậy là họ không có giây phút nào bình an khi còn sống.
Thêm vào danh sách những điều tưởng như không thể đó, hắn ta là một chính khách tài ba, lão luyện biết cách khiến cho giáo triều chẳng dám hó hé yêu sách ngọn rau tấc đất nào trong phần lãnh thổ của hắn. Nhiều năm nay, hắn đã từ chối nộp tô tức cho nhà thờ, chỉ đồng ý mỗi năm tiến cống cho Rome một con ngựa trắng, sung vào đội quân của Giáo hoàng. Vua Ferrante xem xét việc liên minh với Giáo hoàng trong vai trò nhà chính khách chứ không phải một chiến binh bạo tàn. Nhằm đảm bảo rằng sẽ không có chuyện bất ngờ nào xảy ra, và mình sẽ có được sự trợ lực cần thiết trong cuộc xuất quân chinh phục, lão gửi một bức thư khác cho người anh em họ, vua Ferdinand xứ Tây Ban Nha. “Nếu lão Giáo hoàng ấy không đem lại cái gì cho ta vừa ý đẹp lòng,” hắn thông báo, “và từ chối giúp chúng ta, chúng ta sẽ chuẩn bị sẵn binh mã và trên đường đến Milan, cứ tiện tay bỏ túi thành Rome luôn thể.”
* * *
Vua Ferdinand xứ Tây Ban Nha, ý thức được tình trạng căng thẳng giữa Rome, Milan và Naples, biết rằng mình phải can thiệp. Ông cần sự trợ giúp của Giáo hoàng để gìn giữ hòa bình mà với ông luôn tốt hơn chiến tranh. Nếu mọi chuyện suôn sẻ, ông cũng sẽ thông báo cho Alexander biết về một âm mưu lớn mà ông nhận thấy từ cách hành xử của người anh em họ hung hăng Ferrante.
Ferdinand là một người cao ráo, uy nghi, luôn rất coi trọng ngôi vị quân vương Tây Ban Nha của mình. Là một nhà vua Ki-tô giáo, ông không chút nghi ngờ gì về Chúa của mình, và sẵn sàng cúi đầu trước tính bất khả ngộ của Giáo hoàng. Nhưng đức tin của ông vẫn không bằng lòng nhiệt tình truyền giảng Phúc âm của bà vợ, hoàng hậu Isabella; ông không thấy cần phải khởi tố những người nào không cùng tín ngưỡng với mình. Về bản chất, ông là một con người biết điều, và chỉ xem giáo thuyết là công cụ có lợi cho đế quốc Aragon. Ông và Alexander kính trọng nhau, xem nhau là đối tác đáng tin, nhưng mức độ cũng như người bình thường với nhau.



Vua Ferdinand mặc chiếc áo choàng giản dị bằng xa-tanh xanh sẫm với đường viền lông thú thanh nhã khi ông ngồi đối diện Giáo hoàng trong khách sảnh khổng lồ. Ông nhấm nháp li vang. “Với thiện chí, vua Ferrante đã yêu cầu tôi thông báo cho ngài về một chuyện mà ông ấy vừa mới được biết và có lẽ hữu ích cho ngài, thưa Đức Thánh Cha. Vì ông ấy tin rằng Nhà thờ là một đồng minh - không chỉ với Tây Ban Nha mà còn cả với Naples nữa.”
Alexander mỉm cười, nhưng đôi mắt ông đầy cảnh giác khi nói, “Trời cao luôn ban thưởng cho kẻ trung thành.”
Ferdinand nói nhẹ nhàng. “Không lâu sau mật nghị, tổng chỉ huy quân đội của Ferrante là Virginio Orsini đến gặp hồng y Cibo để thương lượng việc mua lại ba lâu đài mà Cibo thừa hưởng từ cha ông ta, Giáo hoàng Innocent.”
Giáo hoàng Alexander lúc bấy giờ ngồi yên lặng một hồi lâu rồi mới lên tiếng. “Việc chuyển nhượng này xảy ra mà không cho ta biết? Không cần sự cho phép của Tòa Thánh? Tội gian dối này lại do chính một Giáo hoàng chủ mưu sao?”
Sự thật là Alexander cảm thấy bối rối vì sự phản bội của Orsini hơn là của hồng y Cibo; bởi tổng chỉ huy Orsini không chỉ là anh chồng của Adriana, mà còn được Giáo hoàng xem là bạn. Và ngay cả trong những thời khắc cam go nhất, ta vẫn còn một vài người đáng để tin cậy. Virginio Orsini là một trong số đó.
Bữa tối hôm đó, vua Ferdinand bổ sung chi tiết còn thiếu. “Thỏa thuận mua bán ba lâu đài đó được kí kết ở Ostia, nơi dinh thự của Giuliano della Rovere.”
À, ra thế. Giờ đây Alexander hiểu rồi. Chính della Rovere chống lưng cho hành vi phạm thánh này! Bất kì ai sở hữu những lâu đài này - tất cả đều là những pháo đài bất khả xâm phạm ở phía bắc thành Rome - đều nắm giữ sự an toàn của Rome trong tay.
“Đây là chuyện nan giải cần phải vượt qua,” Alexander nói.
Vua Ferdinand nhất trí. “Bản vương sẽ đến Naples thương thảo với Ferrante nhân danh ngài, để xem có thể làm được gì.”
Nhà vua hôn nhẫn của Giáo hoàng trước khi từ biệt, trấn an Alexander rằng ông sẽ vận dụng mọi ảnh hưởng của mình để giải quyết vấn đề. Sau đó, Ferdinand nói, “Còn một vấn đề nữa, thưa Đức Thánh Cha. Hiện đang có chuyện tranh chấp về Tân Thế Giới. Cả Bồ Đào Nha lẫn Tây Ban Nha đều tranh giành những lãnh thổ mới này. Việc Đức Thánh Cha đứng ra hòa giải sẽ được hoàng hậu và bản vương đánh giá cao, bởi rõ ràng trường hợp này rất cần sự hướng dẫn của Thánh Linh.”
* * *
Vua Ferdinand xứ Tây Ban Nha công du đến Naples và thương nghị với người anh em họ, vua Ferrante. Vừa đến nơi, thư từ bắt đầu tới tấp qua lại giữa Rome và Naples. Các sứ thần ngày đêm rong ruổi trên lưng ngựa. Cuối cùng vua Ferrante long trọng bảo đảm với Giáo hoàng rằng sẽ không có mưu đồ nào làm tổn hại đến bản thân Alexander từ phía Virginio Orsini; mà trái lại, những lâu đài nọ sẽ được giữ để giúp cho Rome được an toàn. Chúng tọa lạc ngay bên ngoài thành phố và do vậy có thể thành những tấm lá chắn kiên cố cho Rome trong trường hợp quân Pháp xâm lăng.
Và như thế các bên thỏa thuận rằng Virginio Orsini được phép giữ những lâu đài đó, nhưng buộc phải cống nạp khoản thuế bốn mươi ngàn ducat hằng năm cho Vatican như bằng chứng cho tấm lòng thành và sự tận trung đối với Giáo hoàng Alexander.



Bấy giờ, câu hỏi được đặt ra là: để đáp lại sự hậu thuẫn của vua Ferdinand và vua Ferrante, Giáo hoàng sẽ thưởng cho họ gì đây?
Vua Ferrante muốn Cesare Borgia lấy cô cháu mười sáu tuổi của ông, công chúa Sancia.
Giáo hoàng Alexander từ chối, nhắc nhở vua Ferrante rằng cậu con cả của mình đã được ơn thiên triệu để trở thành một chức sắc của Giáo hội. Cho nên, thay vì thế, ông xin đề nghị cậu út, Jofre.
Ferrante từ chối. Ai mà chịu chọn cậu em thay vì cậu anh trai chứ? Mặc dù những đời Giáo hoàng trước đều rất ngần ngại khi phải từ chối bất kì điều gì mà Ferrante yêu cầu, song Giáo hoàng Alexander không nao núng. Ông đã có những kế hoạch cho Cesare và nhất quyết không đổi vàng lấy sắt vụn. Ferrante từng nghe nhiều về trò ma mãnh của Alexander trong thương lượng, và giờ đây hắn ta thấy bực mình hết sức. Hắn biết rằng nếu để vụt mất cơ hội liên minh này, Alexander sẽ nhanh chóng tạo dựng liên minh khác, đưa Naples vào thế hiểm. Sau khi cân nhắc và thấy ít có hi vọng thắng thế, Ferrante đành miễn cưỡng chấp nhận. Hắn ta chỉ còn hi vọng cậu nhóc Jofre mười hai tuổi đủ sức lên giường với cô cháu Sancia mười sáu tuổi của mình, và hợp thức hóa hôn ước trước khi Alexander tìm được mối tốt hơn.
Nhưng chỉ năm tháng, sau khi cuộc hôn nhân này được sắp đặt, vua Ferrante, kẻ đáng sợ nhất xứ Naples, đã băng hà. Còn Masino, con trai hắn, vì không khôn ngoan và cũng không bạo tàn bằng cha nên bị rơi vào vòng kiểm soát của Giáo hoàng Alexander. Do Naples vốn là lãnh thổ thuộc giáo triều và Giáo hoàng là lãnh chúa của họ, nên vương miện chỉ có thể được chính Giáo hoàng trao, kẻ nào làm ngài phật ý, ngài sẽ chọn người khác để phong vương. Nhưng lúc đó, xảy ra biến cố làm tổn thương danh dự Giáo hoàng. Vua Charles VIII của Pháp tuyên bố Naples là đất của mình nên cũng muốn đòi vương miện. Nhà vua phái một sứ bộ đến cảnh báo Alexander, đe dọa truất quyền ông ta và chỉ định Giáo hoàng khác, nếu ông đội vương miện cho Masino, người thừa kế Ferrante. Nhưng Giáo hoàng biết rằng nếu để Pháp kiểm soát Naples đó sẽ là một đòn trí mạng cho nền độc lập của các lãnh thổ thuộc giáo triều.
Nỗi lo của Giáo hoàng càng chồng chất, sự bất mãn ở những người chống Tây Ban Nha đang ngày càng lớn dần và kẻ thù truyền kiếp của giáo triều có thể khiến nền hòa bình mong manh trên khắp đất Ý bị phá vỡ kể từ khi ông đảm đương trọng trách. Thế rồi ông nhận được nguồn tin giúp ông quyết định.
Duarte Brandao quay về phòng của Giáo hoàng để cho ông hay, “Thiên hạ đang xì xào về cuộc xâm lăng mới của Pháp. Vua Charles rất mộ đạo và nhiệt tình và nhất quyết trở thành vị quân vương Ki-tô giáo vĩ đại nhất của thời đại mình. Ông ta dự định dẫn đầu một cuộc Thập tự chinh khác để chinh phục Jerusalem.”
Alexander thấy ngay vấn đề. “Vậy là ông vua trẻ này trước tiên phải chinh phục Naples vì biên cương của xứ này tiếp giáp với lãnh thổ của bọn dị giáo. Và ông ta phải đi ngang qua các lãnh thổ thuộc giáo triều trên đường đến Naples.”



Duarte gật đầu. “Charles cũng nói rõ ước muốn cải cách giáo triều và chỉ có một con đường để hoàn thành điều đó, thưa Đức Thánh Cha.”
Giáo hoàng cân nhắc những lời Duarte vừa nói. “Hắn phải truất phế ta để có thể làm những gì hắn muốn…”
Giờ đây Giáo hoàng Alexander quyết định tranh thủ sự ủng hộ của Masino, con của Ferrante, vì ông cần lực lượng quân sự của Naples điều lên phía bắc Rome để ngăn chặn bất kì cuộc tấn công nào của vua Charles.
Chẳng bao lâu sau, Alexander bắt đầu lên kế hoạch khác: để bảo vệ vị trí của mình ở Vatican và thành Rome khỏi cuộc xâm lăng của ngoại bang, Giáo hoàng càng tin chắc rằng mình phải thống nhất các thành bang trên đất Ý. Chính vào lúc đó ông nảy ra ý tưởng Liên minh thần thánh. Kế hoạch của ông là thống nhất và lãnh đạo một số thành bang lớn - vì khi chung tay hợp sức, ta sẽ mạnh hơn nhiều so với khi đứng riêng rẽ.
Ý tưởng thì hay nhưng khi ông đem trình bày kế hoạch của mình cho các nhà cai trị của những thành bang này, nhiều vấn đề nan giải lại phát sinh. Venice, như mọi khi, vẫn muốn đứng trung lập; Milan đã đứng về phía Pháp; còn Florence lại rất yếu về quân sự, lại còn có lão Savonarola, được dân chúng coi như là ngôn sứ, đủ ảnh hưởng ngăn cản thế gia Medici tham gia liên minh.
Với những trở ngại to lớn đó, Alexander kết luận rằng mình phải nhanh chóng phong vương cho Masino - nếu không thì một người khác sẽ nhanh chóng giành lấy cái mũ triều thiên mất thôi.
Bốn ngày sau khi Masino lên ngôi vua xứ Naples, Jofre Borgia thành hôn với ái nữ của Masino, công chúa Sancia.
Trước trang thờ của nhà nguyện ở Castel Nuovo, chú nhóc mười hai tuổi Jofre cố gắng tỏ ra chững chạc, lớn hơn tuổi thật của mình khi đứng bên cô dâu mười sáu tuổi. Mặc dầu chú rể cao hơn cô dâu và trông cũng được trai với mái tóc vàng sậm dày và đôi mắt sáng, dù không có vẻ thông minh và duyên dáng.
Sancia, một cô gái xinh đẹp, hoạt bát lấy làm phiền lòng về lựa chọn của cha mình. Cô từ chối không chịu để người hầu mặc cho trang phục mới trong ngày cưới và trong cuộc lễ cô nhìn trừng trừng vẻ như sốt ruột vào những người khách trong nhà nguyện đông người. Khi vị giám mục hỏi Jofre, “Con có bằng lòng lấy người nữ này…” ông chưa kịp nói hết câu thì chú nhóc Jofre đã nhanh nhẩu vọt miệng nói không kịp thở, “Con chịu, con chịu…”
Khách khứa ai nấy cười ầm cả lên. Nàng Sancia cảm thấy bẽ mặt quá chừng, thế nên khi đáp lại, nàng chỉ lí nhí trong cổ họng. Nàng sẽ làm gì với chú ngố này? Tuy nhiên trong lễ rước dâu, khi thấy rất nhiều đồng tiền vàng và bao nhiêu ngọc ngà châu báu mà cậu ta mang đến làm sính lễ, thì vẻ mặt Sancia dịu đi. Và khi cậu tặng thêm mấy cô phù dâu nhiều đồng tiền vàng trong túi, cô dâu Sancia tóc mun cười với cậu!
Tối hôm đó trong phòng tân hôn, với vua Masino và hai người chứng khác, Jofre Borgia leo lên trên mình cô dâu mới và cưỡi nàng như thể cậu vẫn cưỡi em ngựa cái tơ. Nàng nằm ì ương bướng, cứng người như xác chết. Cậu ta cưỡi lên người nàng những bốn lần, cho đến khi đích thân nhà vua ra lệnh dừng và đồng ý rằng hôn ước đã có hiệu lực.
* * *
Bấy giờ, theo thỏa thuận giữa ông với vua Ferdinand liên quan đến Naples, Alexander gọi Cesare và Juan đến gặp ông ở Đại Sảnh Đức Tin, nơi ông hứa tiếp kiến các sứ thần Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha để hòa giải vụ tranh chấp vùng đất mới.
Khi Cesare và Juan đi vào căn phòng được trang hoàng lộng lẫy, cha họ trông thật uy nghi vương giả, mang chiếc mũ miện Giáo hoàng và mặc chiếc áo choàng đỏ vàng thêu thùa tinh xảo. Ông bảo hai cậu con, “Đây sẽ là một dịp thực tập về thuật ngoại giao mà từ đó các con có thể học hỏi được nhiều điều bổ ích, bởi mỗi đứa con đều đảm nhiệm vị trí trong Giáo hội và sẽ tham gia vào những cuộc thương lượng.”
Ông không nói đến việc vua Ferdinand nhờ Giáo hoàng làm người phân xử là có ý nghĩa riêng, nó phản ánh ảnh hưởng của giáo triều trên phương diện tôn giáo và cả chính trị trong thời đại Khám phá. Giáo hoàng sẽ có được sự hậu thuẫn của Tây Ban Nha, điều mà ông rất cần trong trường hợp vua Charles của Pháp quyết định xâm chiếm các lãnh thổ Ý.
Alexander ngước nhìn lên khi các sứ thần bước vào phòng. Ông nồng nhiệt tiếp đón họ và mở lời, “Ta nghĩ là quý vị đã biết các con ta, hồng y Borgia và công tước xứ Gandia?”
“Thưa Đức Thánh Cha, chúng tôi đã biết,” sứ thần Tây Ban Nha trả lời. Ông ta là một vị đại thần người xứ Castille, khoác chiếc áo thụng đen thêu thùa lộng lẫy. Ông gật đầu chào Cesare, Juan, và vị sứ thần Bồ Đào Nha cao tuổi.
Alexander trải một tấm bản đồ ra trên một cái bàn rộng khảm đá quý. Ông và hai sứ thần chỉ tay vào nhiều địa điểm khác nhau. “Này các con, chúng ta đã giải quyết một vấn đề từng gây nhiều lo ngại giữa quốc gia của hai vị này.”
Hai vị này lại gật đầu và Alexander tiếp tục, “Cả hai quốc gia hùng mạnh này đều đã gửi những nhà thám hiểm dũng cảm đến miền xa xôi nhất, tận những vùng biển chúng ta chưa từng biết đến. Cả hai đều đưa ra yêu sách đối với những tài nguyên phong phú của Tân Thế Giới. Giáo hội thần thánh của chúng ta, thông qua Giáo hoàng Calixtus III, đã tuyên chỉ rằng vương quốc Bồ Dào Nha được quyền chiếm hữu mọi miền đất phi Ki-tô giáo trên bờ của Đại Tây Dương. Do vậy Bồ Đào Nha tuyên bố điều này cho họ quản lí toàn bộ Tân Thế Giới. Mặt khác, Tây Ban Nha lại nhấn mạnh rằng Calixtus chỉ nói đến những phần đất trên bờ đông của đại dương chứ không nói đến những miền đất mới được khám phá nơi bờ tây. Nhằm tránh xung đột giữa hai dân tộc vĩ đại này, vua Ferdinand đã yêu cầu ta đứng ra phân xử những lập trường khác biệt của họ. Và cả hai quốc gia, đặt hi vọng vào linh hướng đã nhất trí chấp nhận quyết định của ta. Đúng thế không nào?”
Hai sứ thần gật đầu.
“Vậy nên,” Alexander tiếp tục, “ta đã thận trọng xem xét vấn đề và đã dành nhiều thời gian quỳ gối nguyện cầu. Và ta đã đi đến một kết luận. Chúng ta phải chia Tân Thế Giới theo kinh tuyến này.”
Ông chỉ tay vào một đường trên bản đồ nằm cách một trăm lí về phía tây đảo Azores và quần đảo Cape Verde. “Mọi miền đất phi Ki-tô giáo nằm ở phía đông kinh tuyến này, vốn bao gồm nhiều hòn đảo giá trị, sẽ thuộc về vương quốc Bồ Đào Nha. Và do đó, dân chúng ở đó sẽ nói tiếng Bồ Đào Nha. Còn mọi phần đất nằm về phía tây của kinh tuyến này sẽ thuộc về đức vua và hoàng hậu Công giáo Ferdinand và Isabella.”
Alexander nhìn vào các sứ thần. “Ta đã ra sắc chỉ Inter Caetera nói rõ cách xử lí vấn đề của ta. Plandini, thư kí Tòa Thánh sẽ giao cho quý vị mỗi người một bản khi sắp ra về. Ta hi vọng cách giải quyết này là thỏa đáng và nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi hơn là bị hi sinh vì hiệp ước của chúng ta.” Ông nở nụ cười mê hoặc thu hút của mình, và cả hai vị sứ thần cúi xuống hôn nhẫn của ông khi ông cho phép họ cáo từ.
Khi họ đã đi khuất, Alexander quay sang Cesare. “Con nghĩ gì về quyết định của cha?”
“Thưa cha, con nghĩ là người Bồ Đào Nha phải chịu thiệt rồi, vì họ nhận được phần lãnh thổ ít hơn nhiều.”
Nét mặt Alexander sáng lên với một nụ cười lang sói. “Con trai à, chính vua Ferdinand của Tây Ban Nha đã yêu cầu chúng ta can thiệp, và trong tận thâm tâm, chúng ta vẫn là con dân Tây Ban Nha. Chúng ta cũng phải xét rằng Tây Ban Nha hiện nay có lẽ là quốc gia hùng cường nhất thế giới. Với việc vua nước Pháp đang lăm le xâm lăng và đang lên kế hoạch điều động các toán quân vượt rặng núi Alps theo lời xúi giục của tên hồng y della Rovere, kẻ thù của chúng ta, ắt là chúng ta phải cần đến sự cứu viện của Tây Ban Nha. Mặt khác, người Bồ Đào Nha thường sản sinh ra những nhà hàng hải mạo hiểm, nhưng họ lại thiếu một quân đội thực sự hùng hậu và tinh nhuệ.”
Trước khi Cesare và Juan cáo lui, Giáo hoàng đặt tay lên vai Juan và nói, “Này con, vì chúng ta đã dàn xếp ổn thỏa nên việc hứa hôn giữa con với Maria Enriquez đã tiến triển tích cực. Ta lặp lại, con hãy chuẩn bị sẵn sàng. Đừng bao giờ xúc phạm vua Ferdinand, bạn quý của chúng ta, vì ta đã tốn bao công sức vận động ngoại giao để củng cố các liên minh này. Chúng ta tạ ơn Chúa hằng ngày vì đã ban hạnh vận cho gia đình, tạo cơ hội rao truyền lời của Người trên khắp địa cầu nhằm gia tăng sức mạnh của giáo triều, vì ơn ích cho thể xác và linh hồn của mọi kẻ tín mộ.”
* * *
Trong vòng một tuần lễ, Juan lên đường sang Tây Ban Nha với đoàn tùy tùng đông đảo mang theo nhiều của cải đáng giá, và hẹn gặp gia đình Enriquez ở Barcelona.
Ở Rome Giáo hoàng cảm thấy gần như kiệt sức vì gánh nặng của cả thế giới; cả đất và trời dường như cùng đè lên vai ông. Tuy nhiên, một lạc thú nho nhỏ có thể giúp ông vui sống trở lại…
Đêm hôm ấy Alexander chỉnh trang cho sạch sẽ thơm tho và ra vẻ bảnh bao trong bộ đồ ngủ bằng lụa đẹp nhất, vì cô nhân tình trẻ Julia Farnese đã được mời đến làm khách trên giường ông đêm nay. Khi người hầu tắm rửa kì cọ cho ông bằng xà phòng thơm, ông vừa mỉm cười vừa tưởng tượng ra khuôn mặt dịu dàng của nàng đang nhìn ngắm ông với lòng ngưỡng mộ và say mê chân thành - ông tin như thế.
Mặc dầu đôi khi ông bối rối với câu hỏi khó là làm thế nào một phụ nữ trẻ, xinh đẹp và duyên dáng như thế lại có thể say mê một người đàn ông đã qua thời thanh xuân từ lâu, song rồi ông chấp nhận chuyện đó như ông từng chấp nhận nhiều nan đề khác trong đời mình. Hẳn rồi, ông đủ khôn ngoan để biết rằng quyền lực và những ân huệ của ông có thể khơi nguồn một sự sùng mộ nào đấy. Và quan hệ của nàng với ông trong tư cách Đức Thánh Cha có thể cải thiện điều kiện sống, mang lại giàu sang cho cả gia tộc nàng và như vậy càng nâng cao vị thế của nàng trong mắt mọi người. Nhưng còn hơn thế nữa, và tự thâm tâm ông biết rõ điều đó. Bởi khi Julia và ông làm tình, đó thực sự là một món quà vô giá. Vẻ ngây thơ hồn nhiên của nàng thật quyến rũ; nhu cầu học hỏi và muốn chiều ý nơi nàng cũng như tính hiếu kì của nàng đối với mọi khám phá nhục dục đem lại cho nàng sự thu hút đặc biệt.
Alexander từng lăn lóc với rất nhiều cô kĩ nữ xinh đẹp dày dạn kinh nghiệm hơn Julia nhiều, những cô nàng biết cách làm thế nào để chiều lòng đàn ông mà chỉ bằng sự ngây thơ. Julia dâng hiến hết mình cho lạc thú xác thịt tựa như một đứa trẻ hồn nhiên vui vẻ, và một cách nào đấy, dầu ông không thể gọi đó là mối quan hệ say mê nhất mà mình từng trải nghiệm, nhưng nó mang lại cho ông sự thỏa mãn vô bờ.
Giờ đây Julia, trong chiếc áo ngủ bằng nhung đỏ thẫm, được đưa vào phòng ngủ của ông. Mái tóc vàng của nàng buông lơi xuống ngang lưng, trên cổ nàng chỉ đeo một vòng ngọc trai đơn giản mà ông đã tặng nàng khi lần đầu họ làm tình với nhau.
Ông ngồi bên mép chiếc giường rộng, còn Julia bắt đầu tháo dây buộc chiếc áo ngủ. Nàng lặng lẽ quay lưng lại và yêu cầu, “Đức Ông thân thương, ông vén tóc em lên nhé?”
Alexander đứng đó, thân hình đồ sộ của ông áp sát phía sau nàng, bao trùm mọi giác quan ông là mùi thơm hoa oải hương tỏa ra từ tóc nàng. Ông mân mê những lọn tóc vàng bằng cả hai tay, đôi bàn tay vốn nắm giữ số phận của biết bao linh hồn, rồi nàng bước ra khỏi chiếc áo ngủ lúc nó rơi xuống sàn.
Khi nàng quay lại và rướn người lên để đón nhận nụ hôn, ông phải cúi xuống để chạm vào đôi môi nàng. Nàng còn chẳng cao bằng Lucrezia và thân hình có phần thanh thoát hơn. Nàng vòng hai cánh tay quanh cổ ông, và khi ông đứng thẳng người lên, ông cũng nhấc nàng lên khỏi sàn nhà.
“Julia, cưng ơi, ta đã chờ hàng giờ dài đằng đẵng, ngóng trông em đến. Ôm em trong vòng tay sẽ mang lại cho ta niềm vui vô ngần chẳng kém khi ta làm lễ mi-xa - mặc dù thật báng bổ khi lớn tiếng thừa nhận chuyện đó với bất kì ai, ngoại trừ em, cưng ạ.”
Julia cười với ông và nằm xuống kề bên ông giữa những tấm khăn trải giường bằng xa-tanh. “Ngày hôm nay em mới nhận được thư của Orso,” nàng nói, “và anh ấy mong muốn trở về Rome thăm gia đình một thời gian.”
Alexander cố không tỏ ra phật ý vì không muốn phá hỏng một đêm xuân tình tuyệt đẹp thế này, “Thật là không may, nhưng ta tin rằng chồng em cần phải ở Bassanello trong một thời gian ngắn nữa. Ta còn cần nó chỉ huy một đạo quân.”
Julia biết tỏng là ông đang ghen, vì mọi biểu cảm đều ánh lên qua đôi mắt ông. Để trấn an ông, nàng nghiêng người qua và đặt đôi môi nàng lên đôi môi ông, hôn ông đắm đuối. Nàng có đôi môi ngọt ngào, mát dịu của một cô gái trẻ còn thiếu kinh nghiệm tình trường, và ông thận trọng tiếp cận nàng sao cho nhẹ nhàng êm ái vì trên hết, ông không muốn làm nàng hoảng sợ. Trước đây họ đã làm tình nhiều lần, nhưng lần nào ông cũng đặt khoái cảm của mình sang một bên để nhường nàng đạt cực khoái trước. Ông không muốn bản thân hoàn toàn mất kiểm soát và để cho ham muốn kéo ông về phía nàng quá mạnh, vì lúc ấy nàng sẽ bối rối và mọi lạc thú có thể sẽ xa lánh cả hai.
“Ông có thích em nằm sấp không?” Nàng hỏi ông. “Và rồi ông nằm bên trên em?”
“Ta sợ làm em đau,” ông bảo nàng. “Ta thích nằm ngửa và em cưỡi lên ta. Như thế em có thể nồng nàn đến đâu tùy ý và tùy nghi nhận lấy khoái cảm.”
Ông thường quan tâm đến điều này, vẻ ngây thơ hồn nhiên giống trẻ con của Julia khi nàng xõa tóc buông lơi giống như các nữ thần trong huyền thoại và truyền kì xa xưa, những nữ thần cám dỗ, mê hoặc vị hoàng tử và giam giữ chàng mãi mãi.
Mỗi khi ông nằm ngửa người và nhìn lên khuôn mặt nàng, đôi mắt nàng lim dim chìm trong cơn hoan lạc, đầu nàng ngả ra sau buông thả, ông tin rằng lạc thú xác thịt mà ông cảm nhận là món quà tặng cho sự quy hàng Đấng Cha Trên Trời. Bởi còn ai khác ngoại trừ Cha Nhân Từ có thể ban cho con người một ơn phước như từ trời cao vậy?
Sáng hôm đó, trước khi Julia rời khỏi phòng, ông tặng nàng một thánh giá bằng vàng chạm khắc tinh mĩ mà ông đặt một trong những thợ kim hoàn tinh xảo nhất ở Florence làm ra. Nàng ngồi trên giường, phô ra cả tấm thân kiều diễm để cho ông đeo tặng vật vào cổ nàng. Nàng ngồi đó, trông nàng như hiện thân của Nhan Sắc, và trong vẻ đẹp nơi khuôn mặt nàng và nơi cơ thể nàng, Giáo hoàng Alexander lại càng thêm kiên định niềm tin vào sự hiện hữu của Thượng Đế, bởi không một ai nơi trần thế có thể quan niệm một sự hoàn hảo tuyệt mĩ đến thế.


[/size]

 Chương 6 

trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6 Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( Mario Puzo )Chương 1 tới 6

Post by Sponsored content



Sponsored content


Back to top Go down

View previous topic View next topic Back to top

- Similar topics

Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum