Our forum runs best with JavaScript enabled !

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 )

View previous topic View next topic Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 ) Empty Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 )

Post by trangd Thu Oct 20, 2022 7:42 pm

[size=19]Vị thầy thuốc của Giáo hoàng hộc tốc chạy đến Vatican để thông báo khẩn về dịch hạch đang bùng phát ở thành Rome. Bấy giờ, ngồi trên ngai vàng, trong Đại Sảnh Đức Tin, nghe tin Cái Chết Đen sắp tràn qua, Alexander hốt hoảng. Ông nhanh chóng cho gọi con gái yêu đến phòng mình.
“Đã đến lúc con phải rời khỏi đây để đến Pesaro, tìm nơi lánh nạn chỗ chồng con,” ông nói vắn tắt.
“Nhưng Papa à,” cô khóc, quỳ dưới chân ông và ôm hai cẳng chân ông, “làm sao con có thể rời xa cha? Làm sao con có thể xa lìa anh em con, Adriana thân yêu, và cả Julia của chúng ta? Làm sao con có thể sống tại một nơi xa cách thành phố mà con yêu mến đến thế?”
Trong trường hợp bình thường, có lẽ Alexander đã thương lượng lâu hơn với con gái cưng, nhưng giờ đây, trong tình thế hiểm nghèo này, ông phải quyết liệt buộc con gái ra đi. “Papa sẽ cho Adriana và Julia cùng đi với con đến Pesaro,” ông bảo cô. “Và chúng ta sẽ gửi thư từ cho nhau hằng ngày, vậy là không ai trong chúng ta sẽ phải cô đơn, con yêu ạ.”



Nhưng Lucrezia không thể nào nguôi ngoai. Nàng đứng đó, đôi mắt của nàng bình thường dịu dàng, giờ đây như rực lửa.
“Con thà chết vì dịch hạch ở Rome còn hơn sống với Giovanni Storza ở Pesaro. Hắn ta khả ố không chịu nổi! Hắn không bao giờ ngó ngàng đến con, hiếm khi nói chuyện với con, và khi nào hắn mở miệng thì toàn nói về bản thân hắn, hay là ra lệnh cho con làm những chuyện mà con thấy ghét.”
Giáo hoàng Alexander trìu mến ôm con gái và cố gắng an ủi. “Trước đây chúng ta chẳng từng bàn về chuyện này rồi hay sao? Về những hi sinh mà mỗi người chúng ta đều phải gánh chịu để duy trì hạnh vận của gia tộc và quyền lực của Chúa trên thế gian này? Julia thân yêu từng nói với ta về lòng ngưỡng mộ của con đối với nữ thánh Catherine. Nữ thánh có phản đối lời kêu gọi của Cha Trên Trời như con không? Và Papa của con chẳng phải là tiếng nói dưới thế của Cha Trên Trời hay sao?”



Lucrezia lùi lại và nhìn cha mình. Môi dưới còn bĩu ra, nàng nói, “Nhưng Catherine xứ Sienna là một vị thánh; còn con chỉ là một đứa con gái bình thường. Các cô gái bình thường đâu cần phải hành động như các vị nữ thánh. Bởi làm con gái của một Giáo hoàng đâu nhất thiết đồng nghĩa với một thánh tử đạo?”
Đôi mắt Giáo hoàng Alexander sáng lên. Hiếm người nào có thể cãi lại lí lẽ đầy thuyết phục của con gái ông, song ông vẫn thích thú và vui lòng khi cô con gái dùng dằng không muốn rời xa ông.
Ông nắm lấy bàn tay xinh xắn của con gái. “À, Papa của con cũng phải hi sinh vì Cha Trên Trời, trên đời này, con là người ta thương yêu nhất, con gái cưng ạ.”
Lúc bấy giờ Lucrezia rụt rè nhìn cha. “Còn Julia thì sao ạ?”
Giáo hoàng làm dấu thánh giá ngang ngực. “Có Chúa làm chứng, ta nói lại, ta không yêu thương ai hơn con.”



“Ô, Papa,” Lucrezia nói, quàng đôi cánh tay quanh cổ ông và hít vào mùi hương trầm từ trang phục thêu kim tuyến của ông. “Cha hứa sẽ gửi thư cho con luôn nhé? Hứa là phải gửi cho con bất cứ khi nào con mong ngóng nhé? Vì nếu không, con sẽ tan biến đi vì tuyệt vọng, và cha sẽ chẳng bao giờ còn thấy con nữa đâu.”
“Cha hứa,” ông nói. “Còn bây giờ, hãy tập họp những người hầu gái của con, ta sẽ thông báo cho chồng con rằng con sắp lên đường đi khỏi đây và đến Pesaro.”
Lucrezia cúi xuống hôn nhẫn Giáo hoàng để cáo từ, khi ngước đầu lên, nàng hỏi, “Con sẽ thông báo cho Julia hay là cha?”
Giáo hoàng mỉm cười. “Con sẽ cho cô ấy biết,” ông bảo, giả bộ nghiêm chỉnh. “Nào, đi thôi…”
* * *
Vào ngày cuối cùng trong cuộc hành trình năm ngày từ Rome đến Pesaro, tấm màn mưa nặng trịch vẫn tuôn xối xả, làm Lucrezia, Julia và Adriana, cùng đoàn tùy tùng và toàn bộ hành lí mang theo ướt sũng.
Lucrezia cảm thấy thất vọng, vì nàng hi vọng mình sẽ xuất hiện với vẻ lộng lẫy nhất khi đến nơi, xét cho cùng, nàng vẫn là nữ công tước cơ mà. Với niềm tự hào và phấn khích của một đứa trẻ mang nhiều kì vọng, Lucrezia muốn được tận hưởng sự ngưỡng mộ và lòng cảm mến mà nàng hi vọng sẽ nhìn thấy trên khuôn mặt của những con người kể từ nay là thần dân của nàng.
Một đoàn ngựa kéo chở theo các kiện hàng quý giá băng qua những miền quê xinh tươi dọc con đường gập ghềnh bụi đá. Mặc dầu có Michelotto và nhiều thuộc hạ vũ trang hộ tống Lucrezia và đoàn của nàng để bảo vệ họ khỏi nguy cơ bị bọn thổ phỉ tấn công hay nạn cướp bóc, nhưng họ vẫn buộc phải dừng lại mỗi đêm khi bóng tối buông xuống. Dọc đường từ Rome đến Pesaro rất hiếm chỗ nghỉ chân, nên họ thường phải dựng lều hạ trại để có chỗ tạm trú qua đêm.



Vài giờ trước khi đến nơi, Lucrezia yêu cầu người hầu dựng một chỗ trú kín đáo để nàng và Julia có thể chỉnh trang dung nhan. Họ đã đi đường nhiều ngày và giờ đây, khuôn mặt trẻ trung tươi tắn của nàng cùng mái tóc sạch sẽ cũng bị nắng mưa gió bụi làm cho rũ rượi cả - ấy là còn chưa nói đến bùn đất dính vào đôi hài và quần áo của nàng. Nàng bảo mấy cô hầu xõa tóc mình ra, lau khô bằng khăn bông mới rồi xức dầu bóng vào những bím tóc vàng của mình để cho chúng vẻ óng ánh đặc biệt. Nhưng khi trút bỏ xiêm y để thay đồ mới, nàng bỗng dưng thấy chóng mặt. “Ta cảm thấy ớn lạnh,” nàng bảo cô hầu, rồi vươn tay bấu vào vai cô gái mới đứng vững.
Adriana lộ vẻ lo âu, vì đôi gò má của Lucrezia ửng hồng lên vì sốt. “Con có ốm không đấy?” Bà ân cần hỏi.
Lucrezia mỉm cười, đôi mắt nàng sáng hơn thường lệ. “Con thấy khỏe,” nàng nói dối, nhưng Adriana để ý thấy hai cánh tay nàng nổi da gà. “Ngay khi đến nơi và được uống vài ngụm trà nóng, con chắc là mình sẽ khỏe hơn thôi. Nhưng chúng ta hãy khởi hành đi nào, vì con chắc là nhiều lễ lạt hội hè còn đang đợi chúng ta và chúng ta không muốn làm cho thần dân mòn mỏi trông mong.”
Họ tiếp tục hành trình đến Pesaro, khi còn cách cổng thành vài dặm, họ thấy đông đảo đàn ông, đàn bà và trẻ con tụ tập, nhiều người đầu đội tay nâng những tấm ván hay vải để che cơn mùa nặng hạt. Thế mà họ vẫn hát hò vui vẻ và vỗ tay rộn ràng, miệng hô vang những lời chào đón hân hoan. Họ tung hoa và nâng cao những em bé cho nàng chạm tay vào.
Nhưng trước khi đến được cổng thành, đầu của Lucrezia bỗng quay cuồng. Lúc Giovanni tươi cười chào đón nàng, và nói, “Chào mừng nàng đến, công nương của ta,” nàng chỉ nghe loáng thoáng trước khi ngất đi vì đuối sức và rơi khỏi ngựa.
Một người hầu bế nàng bằng hai tay, đưa vào trong dinh. Ngạc nhiên vì nàng nhẹ bẫng và ấn tượng với vẻ đẹp rực rỡ của nàng, anh ta đặt nàng nhẹ nhàng lên chiếc giường trải nệm lông vũ trong phòng ngủ lớn và quay lại kể với những người khác mọi chuyện về cô dâu mới của công tước. Adriana và Julia rối rít nhặng xị quanh nàng, yêu cầu cho trà và xúp nóng để giúp làm ấm người nàng, trong lúc đó, Giovanni trở lại với đám đông, bảo họ rằng nữ công tước sẽ chính thức chào dân chúng vào ngày hôm sau khi đã nghỉ ngơi đủ và hồi phục sức khỏe.
* * *
Đêm đó, trong căn phòng tối nơi một thành phố lạ, Lucrezia nằm trên giường, đọc kinh cầu nguyện và cố dỗ giấc ngủ. Nàng nhớ cha kinh khủng, nhưng nỗi nhớ anh Cesare còn da diết hơn nữa. Ngày nàng rời thành Rome, Cesare đã hứa đến thăm nàng ở Pesaro, nhưng nếu vì lí do nào đó không đi được, chàng hứa sẽ gửi Don Michelotto đến hộ tống nàng và đưa nàng về gặp chàng ở Ngân Hồ, nằm giữa Rome và Pesaro. Ở đó họ có thể trải qua quãng thời gian riêng tư bên nhau. Họ có thể nói chuyện mà không sợ ai nghe lén; họ có thể rong chơi trên các cánh đồng như thuở ấu thơ, cách xa đôi mắt soi mói tọc mạch của Giáo hoàng và những người khác được giao trách nhiệm bảo vệ họ.
Ý nghĩ về Cesare an ủi nàng, và cuối cùng, khi nhắm mắt lại và tưởng tượng đôi môi anh trên đôi môi mình, nàng chìm dần vào giấc ngủ.



Sáng hôm sau, khi thức giấc, nàng vẫn cảm thấy người nóng sốt, nhưng nàng không chịu nằm yên trên giường vì không muốn bỏ phí thêm một ngày được nhìn ngắm quang cảnh Pesaro và chào đón những thần dân mà nàng biết đang mong được diện kiến nữ chủ nhân của họ. Mưa đã tạnh hẳn và giờ đây mặt trời đang chiếu vào tận phòng nàng, làm cho không gian trông thân thiện và ấm cúng hẳn lên. Một vài người dân còn ở lại suốt đêm và vẫn đứng nơi quảng trường bên ngoài lâu đài; qua cánh cửa sổ mở toang, nàng nghe thấy tiếng họ ca hát.
Giovanni đã hứa với Lucrezia rằng sẽ có tiệc tùng, vũ hội linh đình chờ nàng tham dự. Nàng phải chuẩn bị. Với sự giúp sức của Julia, Adriana và mấy cô người hầu, nàng cũng chọn được chiếc áo vừa giản dị lại vừa thanh nhã, bằng xa-tanh hồng với vạt áo trên bằng vải mịn có đăng ten kiểu Venice. Nàng mang một khăn buộc tóc có những hạt cườm bằng vàng và ngọc trai, tóc buộc hai bên nhưng để dài và xõa xuống phía sau. Nàng xoay tròn với vẻ vui thích, khoe với Julia. “Trông em có giống một nữ công tước không?”
Julia, đôi mắt xanh ngời sáng, nói, “Giống một công chúa ấy chứ!”
Adriana đồng tình, “Một thiên thần hoàn hảo!”
Lucrezia đi ra ngoài ban-công và vẫy tay chào đám đông nơi quảng trường. Họ vỗ tay, reo hò tán dương nàng và tung lên những vương miện kết bằng hoa. Nàng cúi xuống, lượm một chiếc từ sàn ban-công và đội lên đầu. Đám đông càng hò reo lớn tiếng hơn.
Sau đó, cả thành phố trỗi nhạc tưng bừng, rồi nào là diễn trò tung hứng, kị sĩ đấu thương cùng những anh hề diễu hành qua đường phố, giống như cảnh tượng từng diễn ra ở Rome và nàng lại tràn ngập hạnh phúc vì mọi ánh mắt đều đổ dồn vào nàng. Nàng vẫn thường tự hỏi tại sao cha và các anh nàng lại thích thú những cuộc diễu hành qua thành phố đến vậy, cả uy thế khi nắm quyền nữa, nhưng giờ đây nàng nghĩ mình đã hiểu. Nhìn vào những khuôn mặt của đàn ông, phụ nữ và trẻ con đang ngưỡng vọng mình, Lucrezia cảm thấy bớt cô đơn hơn nhiều. Có lẽ nàng cũng được sinh ra để cảm nhận điều này.
Pesaro là một miền đất tươi đẹp; còn vùng quê thật phồn màu xanh tươi được điểm xuyết với những vườn cây ô-liu trĩu quả lúc vào mùa. Bao quanh và bảo vệ lãnh địa này là rặng núi Apennine khổng lồ và đẹp đẽ, nâng niu gìn giữ thành phố. Lucrezia biết rằng nàng có thể thật sự hạnh phúc ở nơi này - càng hạnh phúc hơn nếu phải chi nàng tìm được cách nào đấy để chịu đựng Giovanni.
* * *
Khắp cả nước Pháp, hầu như bàn dân thiên hạ đều biết rằng vua Charles không chỉ đặt trọn niềm tin vào Giáo hội Công giáo La Mã mà còn vào vị trí của những vì sao trên trời. Và do đó, vị quân sư được tin cậy nhất của ông chính là vị thầy thuốc kiêm chiêm tinh gia Simon xứ Pavia. Simon đã đọc thiên văn đồ vào ngày Charles ra đời và chính ông ta đã tuyên bố nhà vua trẻ có số mệnh trở thành người lãnh đạo cuộc Thập tự chinh mới chống lại bọn tà đạo Thổ Nhĩ Kỳ. Ngay từ thời niên thiếu, Charles chưa bao giờ bắt tay thực hiện việc quan trọng nào mà lại không nghe lời tư vấn của vị chiêm tinh gia này.
Không chỉ nhờ vào tài trí nhạy bén mà còn vì may mắn cực kì, Duarte Brandao nắm bắt được mẩu thông tin quan trọng này và nghĩ ra một chiến lược xuất sắc. Hào hứng quá, ông ta liền chạy ùa vào phòng riêng của Giáo hoàng để trình bày với ngài.



Giáo hoàng Alexander đang ngồi ở bàn kí một chồng những sắc chỉ giáo triều. Khi nhìn lên và thấy Duarte, ông cười thân ái và cho mọi người khác ra khỏi phòng.
Alexander đứng lên và tiến đến chiếc ghế ông thường thích ngồi. Nhưng khi Duarte cúi xuống để hôn nhẫn, Giáo hoàng sốt ruột rụt tay lại. “Này anh bạn, hãy để tất cả mọi nghi thức đó cho những dịp nơi công cộng hoặc khi có mặt những người khác, bởi trong chỗ riêng tư ta biết rằng chính anh là người ta tin cậy hơn cả - kể cả các con ta. Và trách nhiệm đó đòi hỏi một sự bình đẳng nào đấy, ngay cả đối với Người Đại diện của Chúa Jesus. Vì ta, trong tư cách con người, quý chuộng lòng trung thành và coi trọng tình bạn của anh.”
Ông vẫy tay chỉ vào một chiếc ghế đối diện, nhưng Duarte chưa thể yên vị khi chưa trình bày những điều mình biết.
Giáo hoàng Alexander chăm chú lắng nghe. Sau đó ông hỏi, “Bản thân anh có tin rằng những vì sao quyết định vận mệnh?”
Duarte lắc đầu. “Thưa Đức Thánh Cha, chuyện tôi tin hay không tin chẳng quan trọng mấy.”
“Và tuy thế, nó lại có trọng lượng đấy,” Giáo hoàng nói.
“Tôi tin rằng những vì sao có tác động lên cuộc đời con người, thế nhưng chính con người và Cha Trên Trời mới quyết định vận mệnh cuộc đời.”
Giáo hoàng đưa tay chạm vào cái bùa bằng hổ phách mà ông vẫn luôn luôn đeo quanh cổ, trìu mến xoa nó. “Mỗi người trong chúng ta đều tin có một thứ bùa cho cuộc đời mình và anh chàng Charles này cũng không ngoại lệ.” Ông mỉm cười với Duarte. “Nhưng chắc là anh đã có một kế hoạch mang đến cho ta rồi, vì ta có thể nhận ra điều ấy trên khuôn mặt anh, vậy thì nói đi.”
Giọng của Duarte gần như thì thầm. “Để tôi đến gặp anh chàng Simon xứ Pavia này, trước khi cuộc xâm lăng bắt đầu, với một khoản phí chuyên môn. Hành động thật kín đáo.”
“Bao nhiêu?” Alexander hỏi.
Duarte do dự một lát, vì ông biết bản chất tằn tiện của Giáo hoàng khi đụng tới bất kì chuyện gì, ngoại trừ chuyện quốc gia đại sự và lo cho gia đình. “Tôi xin đề nghị hai mươi ngàn ducat…”
Mắt Alexander mở lớn, và ông cố tiết chế sự ngạc nhiên trong giọng nói. “Này Duarte. Chúng ta có thể trang bị ngựa chiến cho cả một đội quân với số tiền đó. Hai mươi ngàn ducat không phải là một khoản phí chuyên môn, đó là một món hối lộ khổng lồ…”
Brandao mỉm cười. “Thưa Đức Thánh Cha, chúng ta không nên tranh cãi về mấy đồng tiền vàng làm gì. Phải làm sao cho tay chiêm tinh này đưa ra lời bàn thuận lợi cho chúng ta bởi hắn chiếm được lòng tin của vua Pháp.”



Giáo hoàng ngồi lặng thinh cân đo đong đếm hồi lâu và cuối cùng ngài mới lên tiếng đồng tình. “Này Duarte, như thường lệ, anh nói đúng. Hãy trả cho nhà thông thái nọ khoản phí như anh gợi ý. Chính chiêm tinh học phủ nhận món quà tự do ý chí mà Chúa ban cho. Giáo luật cấm chuyện đó. Như vậy chúng ta đang chống lại một hành động phản Thiên Chúa. Việc chúng ta can thiệp vào đó không làm hoen ố linh hồn bất tử của chúng ta đâu.”
Ngay trong đêm đó, Duarte cải trang, rong ruổi trên mình ngựa băng qua biên giới Pháp, suốt mấy ngày trời mới đến một túp lều nhỏ giữa rừng Vincennes gần Paris. Ông đến vừa đúng lúc để thấy Simon xứ Pavia đang táy máy nghịch ngợm trong vòng tay của một cô điếm thân hình đẫy đà. Brandao, lúc nào cũng là một quý ông phong nhã, bèn lịch sự thuyết phục Simon hãy cáo lỗi với cô nàng kia để cùng ông bàn chuyện tại phòng khách vì ông có một thông điệp tối quan trọng cần chuyển lời.
Chỉ sau một chốc, Duarte đã đưa ra lời thương lượng và trả khoản phí cho vị thầy thuốc nọ.
Vẫn cải trang như cũ và yên trí về thành công của sứ mệnh, Brandao lại một mình một ngựa trở về thành Rome.
* * *
Phải chi Giáo hoàng có trái tim và linh hồn của một vị thánh thay vì những dục vọng trần tục của một người thường. Nhưng cho dầu nhúng tay vào rất nhiều mưu đồ chính trị, Alexander hiện nay vẫn thường xuyên bị rối trí vì những chuyện riêng tư. Cô nhân tình trẻ của ông, Julia Farnese, đã tháp tùng Lucrezia đến Pesaro, và buộc phải ở lại lâu hơn dự kiến để chăm sóc cho Lucrezia đang đau ốm. Khi Lucrezia khỏe hẳn, Julia mới yên tâm rời đi, rồi nàng quyết định đến thăm chồng, Orso, ở lâu đài Bassanello, vì một lí do nào đó mà Alexander không thể hiểu. Nhưng trước tiên, nàng lấy cớ ghé thăm mẹ và em trai bị bệnh ở Capodimonte để khẩn cầu Giáo hoàng.
Khi Alexander đọc thư của Julia, ông bác bỏ ngay; chồng nàng, Orso, là một người lính, ông nhấn mạnh, và được phái đi xa vì chuyện của giáo triều. Thế nhưng nàng Julia trẻ người non dạ, nổi loạn chống lại chỉ dụ của Giáo hoàng bắt nàng quay lại Rome tức thì. Nàng viết một bức thư thứ nhì cầu xin sự tha thứ của Alexander với hành động bất tuân lần này, nhưng nàng cũng khăng khăng là mình chưa thể quay về ngay. Để tội phản bội càng thêm nặng, nàng kéo theo cả mẹ chồng, Adriana, cùng đi với nàng đến Capodimonte.
Khi nhận được bức thư tiếp theo của nàng, Giáo hoàng càng điên tiết! Nếu ta không chịu nổi tình cảnh không có Julia bên cạnh, vậy thì làm thế nào nàng lại chịu được tình cảnh không có ta bên cạnh nàng? Lòng dạ đàn bà đúng là không thể tin được! Giáo hoàng trút cơn giận dữ vào đám gia nhân. Hằng đêm ông không ngủ, hai mắt mở thao láo, không phải vì đe dọa chính trị nào, mà vì nỗi khát khao được chạm vào bàn tay Julia, hít ngửi mùi hương từ tóc nàng, cảm giác tiếp xúc êm ái từ cơ thể nồng ấm của nàng. Cuối cùng, không chịu nổi nữa, ông bèn quỳ xuống trước trang thờ và cầu xin rằng con quỷ của những thèm khát không bao giờ thỏa kia hãy bị trục xuất ra khỏi trái tim ông. Khi hồng y Farnese, anh của Julia, thử tìm cách khuyên giải ông - giải thích rằng em gái mình không có chọn lựa nào khác, bởi Orso đã yêu cầu nàng đến, và xét cho cùng thì trên danh nghĩa anh ta cũng là chồng nàng mà. Nghe đến đó, Đức Thánh Cha càng sốt tiết, liền tống cổ ông hồng y núp váy đàn bà này đi chỗ khác chơi, và hét lên Ingrazia! (Đồ nịnh bợ!)
Alexander nổi cơn tam bành nhiều ngày liền. Ông nện bước ngang dọc khắp phòng và nhai đi nhai lại hàng tràng dài những thói hư tật xấu của cô nhân tình trẻ, của chồng cô ta và của cô em họ được ông ưu ái. Ông sẽ rút phép thông công bọn chúng. Cả lũ chúng nó chắc chắn sẽ bị tống xuống địa ngục vì cái tội phản bội này!
Nhưng may mắn thay! Chàng trai trẻ Orso cuối cùng đã gỡ thế bí bằng cách giúp cất đi gánh nặng sầu đau canh cánh trong lòng Đức Thánh Cha. Nghe tin Giáo hoàng đang buồn khổ quay quắt, và e ngại cho địa vị của mình sẽ rung rinh chao đảo nếu để ngài nổi trận lôi đình, chàng ta bèn cấm vợ đến thăm mình ở Bassanello. Chàng ta lệnh cho nàng lập tức quay về Rome, với lí do quân Pháp xâm lăng nên các nẻo đường thành Rome sẽ luôn có nguy hiểm rình rập. Chàng ta là chồng nàng mà, nàng buộc phải vâng lời.
* * *
Lúc này, vua Charles điều đạo quân hùng mạnh của ông vượt qua núi Alps tiến vào đất Ý, sát bên ông là hồng y della Rovere, con người chua cay và đầy lòng căm hận, thúc giục nhà vua, nhấn mạnh rằng một cuộc tấn công vào Giáo hoàng Borgia còn quan trọng hơn cả việc tấn công quân ngoại đạo Thổ Nhĩ Kỳ.
Khi quân Pháp nam tiến đến Naples, không một ai hành động để ngăn chặn họ - Milan không, Bologna không và Florence cũng không nốt.
Giáo hoàng Alexander, được tin quân Pháp tiến đến gần, chuẩn bị tiến hành phòng thủ Rome và Vatican. Ông đặt niềm tin vào tổng chỉ huy quân đội của vua Ferrante, ngài Virginio Orsini, tộc trưởng của họ Orsini. Virginio đã thuyết phục được Giáo hoàng về lòng trung tín của mình bằng cách nộp thuế sòng phẳng cho các lâu đài của ông ta. Alexander biết rằng Virginio có thể triệu tập hơn hai mươi ngàn thuộc hạ dưới trướng, và với pháo đài kiên cố Bracciano bất khả xâm phạm, họ hầu như bất khả chiến bại.
Nhưng những mầm mống phản trắc và toan tính ti tiện có thể ẩn sâu ngay cả trong trái tim của những con người dũng cảm nhất, và ngay cả Đức Thánh Cha cũng không thể biết trước.
Bấy giờ, Duarte Brandao chạy ùa vào phòng của Giáo hoàng Alexander. “Thưa ngài, tôi đã nhận được tin rằng người bạn cũ của chúng ta, Virginio Orsini, đã ngả về phía Pháp.”
Nghe tin, Giáo hoàng Alexander nói, “Hẳn là anh ta đã mất trí…”
Duarte, vốn bình tĩnh là thế, mà nay trông cũng bối rối.
“Cái gì thế, anh bạn?” Giáo hoàng hỏi. “Chỉ là thay đổi chiến lược thôi mà. Giờ đây thay vì nghĩ chuyện đánh nhau với vua Charles, chúng ta cần phải nhanh trí hơn hắn.”
Duarte cúi đầu và thấp giọng. “Còn một tin tức đáng ngại hơn nữa, thưa Đức Thánh Cha. Quân Pháp đã bắt được Julia Farnese và Adriana trên đường họ trở về từ Capodimonte. Hiện nay họ đang bị cầm giữ tại sở chỉ huy của kị binh Pháp.”
Giáo hoàng Alexander tái người vì giận. Trong một hồi lâu ông không nói được lời nào, đầu óc ông tối sầm lại vì lo lắng và sợ hãi. Cuối cùng ông nói, “Duarte, sự sụp đổ của thành Rome sẽ là một bi kịch, nhưng nếu Julia yêu quý của ta bị làm nhục, thì đó sẽ là cả một thảm họa kinh thiên động địa. Anh phải vì ta mà lo điều đình thương lượng thế nào để chúng thả nàng ra vì chắc chắn là chúng muốn chúng ta chuộc nàng.”
“Điều kiện của ngài là gì?” Duarte hỏi.
“Bất kì giá nào cũng phải chuộc nàng về cho ta.” Alexander nói. “Bởi giờ đây Charles đã nắm trong tay không chỉ trái tim ta mà cả đôi mắt ta nữa.”
* * *
Quân Pháp không chỉ là những người lính tinh nhuệ mà còn nổi tiếng vì phong cách hiệp sĩ. Khi bắt được Julia Farnese và Adriana Orsini, họ liền thả hết đám tùy tùng. Sau đó họ còn cố lấy lòng hai vị phu nhân xinh đẹp bằng đồ ăn thức uống ngon và những câu chuyện vui. Nhưng khi vua Charles phát hiện các quý bà bị bắt là ai, ông liền ra lệnh phải trả họ lại cho Giáo hoàng.
“Với số tiền chuộc bao nhiêu?” Chỉ huy trưởng kị binh hỏi.
Charles bỗng tỏ ra hào hiệp. “Ba ngàn ducat thôi,” nhà vua nói.
Viên tướng phản đối. “Giáo hoàng Alexander sẵn sàng trả gấp năm mươi lần số đó mà.”
“Nhưng chúng ta đến đây để đòi lại vương miện xứ Naples,” Charles nhắc nhở viên tướng, “vốn còn giá trị hơn rất nhiều mà.”
Trong vòng ba ngày, Julia Farnese và Adriana quay trở về Rome không hề hấn gì và được bốn trăm binh sĩ Pháp hộ tống. Alexander đứng đợi ở cổng thành, nhẹ nhõm và vui sướng.
Sau đó, trong phòng riêng, ăn mặc như một kị sĩ, trang bị đầy đủ cả trường kiếm lẫn đoản đao, mang đôi ủng màu đen bóng loáng sản xuất tại Valencia và một áo khoác đen thêu chỉ vàng, chàng hiệp sĩ già Rodrigo Borgia làm tình cuồng nhiệt, say đắm với Julia. Và lần đầu tiên kể từ lúc nàng đi xa, ông mới thấy lòng già bình yên.
* * *
Giáo hoàng Alexander, xét vì sự phản bội không ngờ tới của Virginio Orsini, nhận định rằng giờ đây mà tính chuyện kháng cự lại quân Pháp là vô vọng. Không có những pháo đài của Orsini bảo vệ cửa ngõ vào thành Rome, Charles sẽ băng băng tiến bước. Ông cần thời gian triển khai một chiến lược khôn ngoan hơn nhà vua trẻ, chứ không phải dồn sức đánh bại quân Pháp trên chiến trường.
Với tài nhìn xa trông rộng vốn có của mình, ngay khi lên ngôi Giáo hoàng, Alexander đã nghĩ đến khả năng bị ngoại bang xâm lăng. Ông đã cho xây dựng một hành lang an toàn giữa các phòng ở Vatican và lâu đài Sant Angelo để có thể bảo vệ bản thân ông. Ông cho dự trữ lương thực, nước uống và mọi thứ cần thiết để có thể cầm cự ít nhất là qua một mùa đông, và giờ đây ông quyết định sẽ cầm cự lâu đến như vậy, nếu cần.
Giờ đây, dưới đôi mắt giám sát của Duarte Brandao và Don Michelotto, Alexander và Cesare chỉ thị cho các người hầu thu gom những bảo vật - những mũ triều thiên bằng vàng, ngọc ngà, châu báu, thánh tích, tràng hạt, thảm thêu… về nơi trú ẩn an toàn ở lâu đài Sant Angelo, một pháo đài bất khả xâm phạm. Cả gia đình, bà con quyến thuộc cùng đến đó với họ; ngay cả Vanozza cũng rời bỏ dinh thự riêng của mình đến trú ở Sant Angelo. Và với sự khôn ngoan nhạy bén, hồng y Farnese nhanh chóng mang em gái mình, Julia, ra khỏi Rome, nhằm tránh cho Giáo hoàng bất kì chuyện khó xử nào. Cuộc đối đầu giữa các nàng nhân tình xưa và nay có thể gây cho Alexander nhiều phiến toái hơn cả chuyện vua Charles đang kéo quân đến, bởi mặc dầu Vanozza chấp nhận Julia - nhưng không bao giờ có thể coi trọng nàng ta - trong khi Julia thì lại rất ghen tị với bà mẹ của những đứa con Giáo hoàng.
Vào ngày lễ Giáng sinh, Giáo hoàng ra lệnh mọi đoàn quân từ Naples phải lập tức rời khỏi thành Rome. Họ không đủ mạnh để giành ưu thế trước các đạo quân Pháp và Alexander e rằng sự hiện diện của họ trong thành phố có thể khiến cho Rome trông như một nơi không thân thiện. Và như thế Charles có cớ cướp phá thành phố, lấy đi mọi vật giá trị làm chiến lợi phẩm - hoặc là, ít nhất, cũng không ngăn cấm và nghiêm trị các toán quân của ông ta nếu họ làm chuyện đó. Ông bảo Duarte, “Hãy gửi thông điệp này đến cho Charles. Nói với ông ta rằng Đức Thánh Cha, Giáo hoàng Alexander muốn chào đón trọng thể khi ông ta đi qua thành phố này trên đường chinh phục Naples.”
Duarte nhíu mày, đôi mắt hẹp lại. “Đi qua?”
“Một cách nói thôi mà,” Alexander trả lời, nhưng trông ông đầy vẻ ưu tư khi nói tiếp, “mặc dầu ta cũng không chắc ông vua ấy đang nghĩ gì trong đầu.”
* * *
Tháng mười hai đến, trời đổ tuyết dày đặc, biến mọi thứ thành một màu xám, Giáo hoàng Alexander đầy phiền muộn và cậu con cả Cesare quan sát từ cửa sổ của pháo đài trong lúc quân Pháp, đội hình chỉnh tề, hàng hàng lớp lớp tiến qua các cánh cổng thành Rome.
Những toán quân Thụy Sĩ trang bị thương và giáo dài, quấn Gascon với cung nỏ và súng dài nòng nhỏ gọi là harquebuses, lính đánh thuê Đức với rìu và côn nhọn đầu và khinh kị binh với giáo dài sáng loáng, ào ạt tràn qua thành phố. Họ còn được tháp tùng bởi đạo quân mang giáp nặng, tay cầm trường kiếm hay thiết côn, còn phía sau là hàng hàng pháo thủ đi bên cạnh những khẩu đại bác khổng lồ bằng đồng.
Để chuẩn bị đón nhà vua, Alexander đã dành riêng cung điện Venezia rộng lớn và sang trọng cho vua Charles. Nhà vua sẽ được phục dịch bởi các đầu bếp tài ba nhất mà Giáo hoàng có thể triệu tập và hàng trăm người hầu đã được lên danh sách để cung tiến mọi tiện nghi xa hoa cho vị quân vương Pháp. Đáp lại lòng hiếu khách của Giáo hoàng, Charles ban lệnh cho binh sĩ của mình không được cướp phá hay có bất kì hành động bạo lực nào trong thành phố, nếu bất tuân sẽ bị hành hình ngay tại chỗ.
Nhưng trong khi Charles đang tận hưởng cuộc “tham quan” thành Rome, ấn tượng với cung cách trọng thị mà Giáo hoàng biểu lộ với ông, thì hồng y della Rovere và những hồng y bất mãn khác theo phe ông cứ thì thầm vào tai nhà vua, cảnh báo Charles hết lần này đến lần khác về tính xảo quyệt ma mãnh của Giáo hoàng và thúc giục ông triệu tập Đại Hội Đồng.
Alexander phái một trong những hồng y trung thành, một thuyết khách tài ba hàng đầu của mình, đến thương nghị với nhà vua để bào chữa cho ông trước lời kết tội buôn thần bán thánh của hồng y della Rovere. Và Charles hình như bị thuyết phục bởi những lập luận của vị sứ thần Giáo hoàng hơn là lời ong tiếng ve của della Rovere, người đang trong trạng thái khích động điên cuồng.
Không có Đại Hội Đồng nào được triệu tập.
Thay vì thế, mấy ngày sau vua Charles gửi một quốc thư được niêm phong cho Giáo hoàng. Khi mở thư, Alexander hít một hơi sâu. Rồi ông đọc kĩ văn kiện hoàng gia và thử giải mã tâm trạng người viết. Đó là một thỉnh nguyện. Vua Charles muốn hội kiến với ông.
Giáo hoàng thấy nhẹ người. Ông đã đạt được những gì ông hi vọng. Chiến lược của ông tỏ ra được việc; giờ đây tình huống tưởng chừng như nan giải này lại có thể được thương lượng với lợi thế nghiêng về phía ông. Mặc dầu đất Ý đã bị Charles và đoàn quân của ông ta làm cho rạn nứt, Giáo hoàng biết rằng mình phải giữ phong thái bề trên trước ông vua Pháp hống hách này. Alexander không muốn tỏ ra ngạo nghễ; tuy thế ông hiểu rằng mình phải tránh để lộ ra cái vẻ “nhẹ nhõm cả người”.
Giáo hoàng thu xếp cho cuộc gặp gỡ diễn ra nơi vườn hoa của Vatican. Nhưng việc tính toán thời gian là vô cùng quan trọng. Alexander biết rằng mình không thể đến trước nhà vua và tỏ vẻ như chờ đợi, và tuy thế, điều cũng quan trọng không kém, đó là nhà vua không đến trước và phải chờ đợi. Đây là điểm mà tài ngoại giao của Alexander tỏ ra điêu luyện nhất.
Ông được khiêng bằng kiệu từ lâu đài Sant Angelo đến điểm hẹn tại vườn hoa. Nhưng ông sai bọn lính khiêng kiệu để ông khuất tầm nhìn sau một bụi cây lớn dọc theo một trong những căn nhà bằng đá. Tại đó ông yên lặng chờ đợi khoảng hai mươi phút. Thế rồi ngay lúc thấy vua Charles đi vào vườn hoa và bắt đầu dạo bước trên con đường dài hai bên là hoa hồng đỏ thắm, những người khiêng kiệu của Alexander liền khiêng ông tới trước.
Giáo hoàng Alexander mặc bộ trang phục uy nghi nhất: vương miện ba tầng bằng vàng như cái đèn lấp lánh trên đầu, một thánh giá lớn bằng bảo ngọc đong đưa trên ngực ông.
Charles, ông vua đầy quyền lực của nước Pháp, quốc gia hùng cường nhất về quân sự trong tất cả các quốc gia Ki-tô giáo, lại là một người nhỏ bé, gần như người lùn, đi đôi giày ống đế cao và trông như lọt thỏm trong bộ trang phục quá khổ với đủ bảy sắc cầu vồng. Ông ta kính phục trước vóc dáng uy
nghi đường bệ của Đức Thánh Cha Alexander đến nỗi nước dãi rỉ qua khóe miệng.
Và thế đấy, nơi vườn hoa này với hàng vạn đóa hồng rực rỡ khoe sắc, Giáo hoàng Alexander đã thương thuyết thành công để cứu được thành Rome.
* * *
Ngày tiếp theo, Giáo hoàng và đức vua tái ngộ để bàn dứt điểm hiệp định, lần này là ở Đại Sảnh Các Giáo Hoàng. Alexander biết rằng địa điểm này sẽ đem lại lợi thế cho ông. Charles sẽ coi đó là một nơi chốn thiêng liêng, một điểm hẹn thần thánh nhất trên mặt đất này.
Alexander soạn khai từ cực kì khôn khéo khiến Charles không bao giờ có thể viện lí do gì để hạ bệ ông được. Ông viết: “Đức Thánh Cha của chúng ta sẽ mãi mãi là vị cha hiền của vua nước Pháp, và vua nước Pháp sẽ mãi mãi là hiếu tử tận tụy với Đức Thánh Cha.” Sau đó là lúc đi vào những điều khoản cụ thể.
Alexander sẽ cho phép quân Pháp được tiến quân xuyên qua mọi lãnh thổ thuộc giáo triều thêm vào đó là tiếp tế quân lương. Nói vắn tắt là, nếu Charles có thể đánh thắng được Naples, Alexander sẽ ban cho ông ta sự chấp thuận của Giáo hội. Để bảo đảm điều này, Giáo hoàng sẽ giao người con yêu quý nhất của ông, cậu cả Cesare cho vua Charles làm con tin. Cesare Borgia cũng sẽ được ủy quyền để trao vương miện cho Charles lên ngôi vua xứ Naples một khi thành bang này bị chinh phục.
Ông hoàng Djem, vẫn còn bị Giáo hoàng cầm giữ, cũng sẽ được trao cho Charles, nhưng Giáo hoàng vẫn được phép lấy bốn mươi ngàn ducat mà vị vua Thổ Nhĩ Kỳ chi trả hằng năm để cầm giữ anh ông ta. Charles sẽ đưa Djem vào nhóm lãnh đạo Thập tự chinh để làm nhụt nhuệ khí bọn ngoại giáo đang phòng thủ thánh địa Jerusalem.
Khát vọng tha thiết nhất của vua Charles là được Giáo hoàng phong làm Tổng tư lệnh chính thức của cuộc Thập tự chinh. Alexander đồng ý, nhưng nhấn mạnh rằng trước tiên Charles phải tuyên thệ phục tùng ông và công nhận ông là Người Đại diện đích thực của Chúa Jesus.
Điều này được hai bên nhất trí, nhưng với điều kiện là Charles chỉ được phong Tổng tư lệnh Thập tự chinh sau khi chinh phục được Naples.
Charles cúi người nhiều lần, như nghi thức cần phải thế, và hôn nhẫn Giáo hoàng. Sau đó nhà vua nói, “Con xin thề phục tùng và tôn kính Đức Giáo hoàng, như tất cả các vị vua Pháp từ trước đến nay. Con công nhận Đức Thánh Cha là Giáo Tông của mọi tín đồ Ki-tô giáo, và là người kế thừa của các thánh tông đồ Peter và Paul. Giờ đây con cung tiến tất cả những gì con sở hữu cho Tòa Thánh.”
Alexander đứng lên, vòng tay ôm chặt Charles và nói, “Ta sẽ ban cho con ba ân huệ,” như thông lệ quy định. Trước khi một chư hầu tuyên thệ phục tùng và tôn kính đối với một lãnh chúa mới, ông ta được quyền yêu cầu ân huệ. Để tránh làm xấu mặt Tòa Thánh, người ta hiểu ngầm với nhau là những ân huệ phải được thương lượng trước đó, và như vậy sẽ không có vẻ là chuyện cò kè mặc cả.
Charles tiếp tục, “Con xin Đức Thánh Cha khẳng định rằng gia đình con được hưởng mọi đặc ân hoàng gia, xin ngài tuyên chỉ rằng chúng con trị vì do ý Chúa. Thứ nhì, xin ngài ban phước lành cho cuộc viễn chinh của con đến Naples. Và thứ ba, xin ngài phong cho ba nhân vật do con tiến cử làm hồng y, cho phép hồng y della Rovere được thường trú ở Pháp.”
Giáo hoàng Alexander chấp thuận mọi yêu cầu trên, và thế là, tràn ngập vui sướng, vua Charles gọi từ đám cận thần tùy tùng một nhân vật cao lêu khêu, mảnh mai như cây sậy, với bộ mặt dài ngoằng và đôi mắt buồn như đưa đám. “Thưa Đức Thánh Cha, con muốn giới thiệu vị thầy thuốc riêng và chiêm tinh gia của con, Simon xứ Pavia. Việc ông ấy giải đoán các vì sao ảnh hưởng đến quyết định của con hơn bất kì yếu tố nào khác, khiến con bác bỏ những lời thúc giục của hồng y della Rovere và đặt trọn niềm tin vào Đức Thánh Cha.”
Như vậy, từ một vị thế chông chênh ngàn cân treo sợi tóc, Alexander đã thương nghị thành công một nền hòa bình với giá rất phải chăng.
Chiều tối hôm ấy, Alexander gọi Cesare vào phòng riêng để giảng giải về hiệp ước vừa rồi với vua Charles.
Trong lúc nghe cha nói, Cesare cảm thấy một cơn giận nhanh chóng ùa đến, nhưng chàng vẫn cúi đầu. Chàng biết rằng, với tư cách là hồng y và là con trai của Giáo hoàng thì chuyện chàng làm con tin là hợp tình hợp lí thôi. Còn Juan, em chàng, vốn không bao lâu nữa sẽ là thống soái quân đội giáo triều, không thể đưa đi làm con tin được. Cơn giận của Cesare ít liên quan đến tính nguy hiểm của nhiệm vụ mà chủ yếu vì cuộc giao dịch đổi chác kia nhắc nhở rằng chàng cũng chỉ là quân tốt đen trong ván cờ quyền lực, tùy thuộc vào toan tính, nước đi của kẻ khác mà thôi.
Alexander ngồi xuống trên cái hòm được chạm khắc thật đẹp đặt ở chân giường ngủ của ông, nắp được khắc chạm hoa mĩ bởi bàn tay điệu nghệ của Pinturicchio. Bên trong hòm là những cốc uống rượu, nhiều quần áo ngủ, nước hoa và tinh dầu thượng hạng - mọi thứ cần thiết khi Giáo hoàng Alexander mang các nàng nhân tình vào phòng ngủ tại căn hộ nhà Borgia. Ông thích ngồi trên cái hòm này hơn các chiếc ghế khác trong phòng mình.
“Con trai ạ, con biết rằng ta không thể gửi Juan, em con làm con tin vì nó sắp phải đảm đương chức thống soái quân đội giáo triều. Vậy nên phải là con thôi.” Giáo hoàng nói với con cả và nhận ra cơn tức giận của Cesare. “Charles cũng đòi hỏi Djem làm con tin, vậy nên con sẽ có bạn đồng hành. Hãy vui lên nào! Naples là một thành phố có nhiều thú vui cho một chàng trai trẻ như con.” Alexander ngưng một lát, đôi mắt đen ánh lên vẻ tươi vui. Rồi ông nói với Cesare, “Con đâu có thích em Juan lắm.”
Nhưng Cesare đã quen với mánh này của cha mình rồi - vẻ vui đùa ngụy trang cho một ý đồ nghiêm túc. “Nó là em con mà,” Cesare nói với vẻ cung kính. “Vậy nên con thương nó vì tình nghĩa anh em.” So với lòng căm ghét đứa em trai kế, Cesare còn giấu giếm những bí mật ghê gớm hơn nhiều - những bí mật có thể hủy hoại cuộc đời chàng, mối quan hệ của chàng với cha mình, với Giáo hội, và với bao người thân khác. Vậy nên chàng cũng chẳng buồn che giấu chuyện mình không thích Juan. Chàng phá ra cười. “Tất nhiên, nếu nó không phải là em con thì có thể nó sẽ là kẻ thù của con.”
Alexander nhíu mày tỏ ý phiền lòng. Ông biết rằng mình đang mất đi điều gì đó rất quan trọng. “Đừng bao giờ nói như thế, ngay cả khi nói đùa, con ạ. Gia tộc Borgia có quá nhiều kẻ thù và chúng ta chỉ có thể sống sót khi tin cậy nhau.” Ông đứng lên khỏi chiếc hòm, bước đến với Cesare và ôm chàng. “Ta biết con thích làm một chiến binh hơn làm một linh mục. Nhưng hãy tin ta, con có vai trò quan trọng hơn Juan trong kế hoạch của gia đình ta, và con biết ta yêu thương em con như thế nào. Nhưng khi ta mất đi, mọi sự sẽ sụp đổ trừ phi có con ở đó để kế tục ta. Con là đứa duy nhất trong những đứa con của ta có thể gánh vác trách nhiệm nặng nề này. Con có tài trí, có dũng khí, võ nghệ cao cường. Trước nay từng có nhiều Giáo hoàng kiêm tướng lĩnh và chắc chắn con có thể là một trong số họ.”
“Con còn quá trẻ,” Cesare sốt ruột nói. “Cha còn phải sống cỡ hai mươi năm nữa…”
Alexander đẩy con trai ra và nói. “Tại sao không?” Ông nở nụ cười gian ngoan với Cesare, nụ cười khiến cho con cái ông và các nàng nhân tình đều mê thích. Giọng nam trung trầm ấm của ông tràn ra dạt dào. “Ai thưởng thức tiệc tùng hơn ta? Ai có thể đi săn nhiều giờ liền trong ngày hơn ta? Ai yêu đàn bà sung mãn và cuồng nhiệt hơn ta? Nếu chuyện Giáo hoàng sinh con không bị coi là trái với giáo luật thì đến nay ta đã cho ra đời biết bao nhiêu đứa con nữa? Ta còn sống vui sống khỏe hai mươi năm nữa, và con sẽ là Giáo hoàng. Ta đã lên kế hoạch chu đáo cả rồi.”
“Nhưng con thích chiến đấu hơn là cầu nguyện,” Cesare nói. “Bản chất của con là vậy mà.”
“Như con đã chứng tỏ,” Alexander thở ra. “Nhưng ta kể với con tất cả chuyện này là để chứng tỏ lòng yêu thương của ta đối với con. Con là đứa con ta yêu quý và là niềm hi vọng lớn nhất của ta. Một ngày nào đó, chính con, chứ không phải Charles, sẽ lấy lại Jerusalem.” Ông ngưng một chốc vì xúc động dâng tràn.
Vũ khí tối thượng của Alexander là khả năng tạo cho người khác cảm tưởng an lạc khi ở bên cạnh ông, khả năng khiến cho ai cùng tin rằng ông đặt lợi ích của họ lên trên hết, và thế là chiếm được lòng tin cậy của họ, họ tin vào ông còn hơn tin vào chính mình. Đây mới chính là hành vi lừa lọc.
Cách hành xử của ông với vương quyền, con cái, và với đám thần dân của ông cũng y như thế: bởi chừng nào ông còn là Giáo hoàng thì cả thế giới này còn nằm dưới quyền chi phối của ông.
Trong một thoáng, Cesare bị cuốn theo lời nói mê hoặc của Alexander. Nhưng rồi việc nhắc đến một cuộc Thập tự chinh khác khiến chàng bừng tỉnh. Nhiều đời Giáo hoàng và vua chúa từng lợi dụng niềm hi vọng tiến hành một cuộc Thập tự chinh nữa để moi tiền của tín đồ; đó là một nguồn lợi khác. Nhưng thời Thập tự chinh đã qua rồi, bởi đạo Hồi bây giờ mạnh đến độ còn đe dọa cả châu Âu nữa. Thành bang Venice sống trong nỗi lo sợ rằng việc làm ăn buôn bán khắp thế giới của mình sẽ bị gián đoạn vì một cuộc chiến kiểu đó và bọn Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí có thể tấn công thành phố của họ. Pháp và Tây Ban Nha vẫn thường xuyên kề dao vào cổ nhau vì tranh giành vương miện xứ Naples, và chính bản thân Giáo hoàng đã cố gắng hết sức trong khả năng của mình để duy trì quyền lực tại các lãnh thổ thuộc giáo triều. Và ông bố chàng quá tinh ranh, không thể nào không biết đến chuyện này. Nhưng Cesare cũng biết rằng Juan là số một trong trái tim của cha mình - và hợp lí thôi, chàng nghĩ. Juan có những thủ đoạn gian trá của một người đàn bà xảo quyệt và là tên nịnh thần gió chiều nào theo chiều đó. Đôi lúc chàng ta còn dụ dỗ được Cesare, mặc dầu Cesare vẫn khinh miệt cậu em vì chàng nghĩ hắn là đứa hèn nhát. Hắn mà làm thống soái quân đội giáo triều? Đúng là trò hề!
“Khi dẫn đầu Thập tự chinh, con sẽ cho cạo trọc đỉnh đầu đấy,” Cesare nói. Đó là một câu đùa giữa hai cha con. Cesare chưa bao giờ xuống tóc theo kiểu người đi tu cả.
Alexander cười xòa. “Sau khi lãnh đạo cuộc Thập tự chinh, có lẽ con có thể thuyết phục Giáo hội bãi bỏ chuyện buộc tu sĩ phải độc thân và xuống tóc. Có lẽ cả hai chuyện này là những cách hành đạo lành mạnh, nhưng dẫu sao cũng phản tự nhiên.” Alexander yên lặng một lát, chìm đắm trong trầm tư. Rồi ông nói, “Để ta nhắc nhở con một chuyện. Khi đi theo quân Pháp tới Naples, con phải trông chừng Djem, người cũng làm con tin như con. Hãy nhớ rằng vị quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ trả ta bốn mươi ngàn ducat mỗi năm để giữ anh chàng này. Nếu hắn chết, ta hết lấy tiền; nếu hắn trốn mất, ta cũng mất luôn tiền. Và nên nhớ: hắn đem lại nhiều tiền cho chúng ta hơn là một chiếc mũ hồng y đấy.”
“Con sẽ bảo trọng bản thân và trông nom cho cả hắn nữa,” Cesare nói. “Con tin rằng cha sẽ giữ em Juan ở Tây Ban Nha để nó không làm điều gì chọc giận vua Ferdinand và như vậy gây nguy hiểm cho sự an toàn của chúng ta với vua Pháp.”
“Em con sẽ chỉ hành động theo lệnh ta,” Alexander nói. “Và lệnh của ta luôn luôn là để bảo vệ con. Bởi xét cho cạn lẽ thì chính con mới là người nắm trong tay tương lai của nhà Borgia.”
“Con sẽ luôn luôn tận lực vì cha,” Cesare nói. “Và vì Giáo hội.”
* * *
Biết rằng sau trưa hôm đó mình sẽ bị bắt làm con tin và buộc phải rời Rome, Cesare rời Vatican từ sớm tinh mơ và lên ngựa phóng về miền quê. Chàng chỉ có một mục tiêu trong đầu.
Sau khi phi ngựa một quãng thời gian khá lâu, qua bao đồi núi, rừng rậm tràn nhựa sống với tiếng muông thú náo nhiệt và tiếng cú kêu, chàng đến rìa một ngôi làng nhỏ vừa lúc mặt trời mọc xua tan bóng đêm. Con ngựa của chàng ướt đẫm mồ hôi vì phải hối hả phi nước đại suốt cuộc hành trình.
Khi ngựa chạy đến một căn nhà nhỏ bằng đá chàng dừng lại và lên tiếng. “Noni, Noni,” chàng kêu lớn, nhưng chẳng có ai trả lời. Chàng phóng tầm mắt bao quát nhìn quanh, bốn bề đều là đồng không mông quạnh. Chàng cưỡi ngựa vòng ra phía sau nhà.
Ở đó một bà già, còng lưng đến gần như gập đôi người lại vì tuổi tác, chống người tựa vào một cây gậy táo gai. Bà lê bước chậm chạp qua khoảnh vườn, tay trái mang một giỏ mây đựng đầy thảo mộc và các loại hoa vừa mới hái. Chợt bà dừng lại, đầu cúi thấp đến độ hầu như người bà đổ xuống; sau đó bà kín đáo ngước đầu lên và nhìn quanh quất. Nhưng qua đôi mắt đã kéo mây mờ, bà không thấy chàng. Bà đặt giỏ mây xuống nền đất ướt, hái thêm một nắm nhỏ cây cỏ và cẩn thận đặt chúng lên trên các đóa hoa. Bà ngước nhìn trời cao và làm dấu thánh giá. Sau đó, dường như bối rối, bà đảo chân, kéo lê đôi dép trong bùn.
“Noni,” Cesare gọi bà lão lần nữa khi chàng tới gần bà hơn. “Noni!
Bà lão dừng lại khi bà lờ mờ thấy bóng người và nhanh chóng vung cây gậy táo gai vụt tới. Nhưng liền sau đó qua đôi mắt hiếng bà nhận ra chàng. Chỉ khi đó bà mới mỉm cười. “Xuống ngựa đi, con ta,” bà nói, giọng bà nghẹn lại vì tuổi tác và xúc động. “Lại đây và để ta sờ con nào.”
Cesare xuống ngựa và quàng hai cánh tay ôm bà lão, thật nhẹ nhàng vì e xương cốt mong manh của bà sẽ vỡ ra mất.
“Ta giúp gì được cho con hở con trai?” Bà hỏi.
“Con cần vú giúp,” chàng bảo bà ta. “Một loại thảo dược khiến cho một người to khỏe ngủ trong nhiều giờ, nhưng không gây tổn hại gì cho ông ta. Và phải không mùi, không vị.”
Bà lão cười sằng sặc và rướn người lên để âu yếm sờ vào má Cesare. “Người tốt. Con đúng là người tốt,” bà lặp lại. “Không phải thuốc độc? Không giống như cha con…” bà thì thầm. Rồi bà lại cười sằng sặc, mặt bà càng nhăn nheo giống một tờ giấy da mỏng màu nâu.
Cesare đã biết Noni từ khi chàng mới sinh ra đến giờ. Khắp thành Rome, người ta đồn rằng bà từng là vú nuôi của cha chàng từ hồi ở Tây Ban Nha, và Alexander quý mến bà đến độ ông mang bà theo về Rome và cấp cho bà căn nhà nhỏ này nơi miền quê với một mảnh vườn để bà trồng các loại dược thảo.
Không ai có thể nhớ bà đã sống một mình từ bao lâu rồi, thế nhưng chưa hề có kẻ nào dám làm phiền bà - ngay cả bọn trộm cướp ban đêm hay những băng nhóm quậy phá ở các thành phố thỉnh thoảng vẫn lang thang về miền quê để cướp bóc dân làng sức yếu thế cô. Quả là một phép lạ khi bà vẫn sống sót lâu đến thế. Nếu nhiều lời đồn đại khác là đáng tin, Noni được bảo vệ an toàn còn hơn cả Đức Thánh Cha nữa. Vì cũng có lời đồn rằng trong đêm tối, một tiếng hú kì dị thường vọng ra từ nhà bà, không chỉ vào lúc trăng tròn. Cesare chỉ biết rõ một điều: bà không bao giờ phải đi săn hay đi chợ để có thức ăn. Vì những con chim chết và những con thú nhỏ dường như tự mang xác đến đặt mình trước bục cửa hay trong vườn, vẫn còn tươi rói và sẵn sàng cho vào nồi!
Cesare hiếm khi được nghe cha nói về con người kì dị này, nhưng một khi đã nhắc đến, ông luôn dành lòng quý mến và yêu thương cho bà. Hằng năm, một cách trọng thể, Alexander đi về ngôi nhà nhỏ ở miền quê xa này để đầm mình vào cái ao nhỏ trong vắt sau nhà và được vú Noni tắm cho. Đoàn tùy tùng phải đứng ở xa xa, nhưng tất cả đều thề rằng họ nghe thấy tiếng những ngọn gió hoang vu gào rú, tiếng vỗ cánh và trông thấy các vì sao bay lên cuộn xoắn vào nhau.
Còn có nhiều chuyện lạ khác nữa như chuyện Alexander đeo trên cổ một cái bùa bằng hổ phách mà Noni đã tặng khi ông hãy còn là một hồng y trẻ, có lần cái bùa này bị mất và ông gần như phát cuồng. Ngay trong chiều hôm đó, giữa lúc đi săn, ông ngã ngựa, đập đầu xuống đất, nằm bất tỉnh suốt mấy giờ liền. Ai cũng tưởng ông sẽ toi mạng.
Ngày hôm đó, mọi người hầu trong lâu đài ông và nhiều vị hồng y khác sục sạo đi tìm cái bùa bị mất, và sau nhiều lời thề hứa và cầu nguyện nhiệt thành, cuối cùng cái bùa được tìm thấy. Alexander tỉnh lại, sức khỏe hồi phục và ngay sau đó, ông liền ra lệnh cho người thợ kim hoàn của Vatican làm một cái khóa thật chắc gắn vào sợi dây chuyền vàng dày, trên đó treo cái bùa hổ phách. Về sau, ông cho hàn dính cái khóa luôn để nó không rơi đi đâu được. Ông quả quyết rằng cái bùa đó bảo vệ ông khỏi mọi sự dữ và không ai thuyết phục được ông tin điều ngược lại.
Lúc bấy giờ, Noni đi chầm chậm trong nhà, còn Cesare bước theo sau bà. Trên các đinh nhỏ đóng dọc theo tường nhà tối tăm là những bó thảo dược đủ loại được buộc túm lại. Cẩn thận ngắt vài lá từ những bó thảo dược này và với những ngón tay xương xẩu cong queo bao quanh chiếc chày bằng đá, bà cho nhúm lá vào trong cối rồi giã nát, tán nhuyễn chúng thành bột mịn. Xong, bà đổ toàn bộ số bột đó vào một cái túi và trao cho Cesare, dặn dò. “Tác dụng kì diệu của cây horieteitel là nó có thể đem lại giấc ngủ sâu không mộng mị. Mỗi người chỉ cần một dúm nhỏ nhưng ở đây già cho con một lượng đủ để khiến một đạo quân ngủ li bì.”
Cesare tạ ơn bà lão và lại ôm bà. Nhưng khi chàng lên ngựa, bà nắm lấy cánh tay chàng và dặn dò, “Có mùi tử khí trong nhà con đấy. Một người còn trẻ. Con hãy bảo trọng vì con cũng có nguy cơ.”
Cesare gật đầu và cố trấn an bà. “Tử thần lúc nào cũng ở gần ta đấy thôi, bởi chúng ta đang sống trong thời đại đầy tai ương, vú à…”


[/size]

 Chương 7 

trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 ) Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 )

Post by trangd Thu Oct 20, 2022 9:21 pm

[size=19]Rong ruổi trên mình ngựa với kị binh Pháp, Cesare ngắm nhìn những đạo quân quy củ tràn qua các vùng lãnh thổ rộng lớn, chỉ dừng lại để đánh chiếm những lâu đài thù địch trong lúc mở một đường tiến quân về Naples với độ chính xác của một lưỡi hái khổng lồ, đúng phong cách nhà binh.
Mặc dầu trên danh nghĩa là con tin, song Cesare vẫn được quân Pháp đối xử trọng thị và chỉ bị canh giữ lỏng lẻo, ngay cả trong đêm. Suốt nhiều ngày dài, chàng thể hiện rõ lòng say mê chiến trường và theo dõi các tay chỉ huy Pháp hoạch định chiến thuật quân sự, nghiên cứu chiến lược của họ. Trên chiến trường chàng không còn là một hồng y mà là một chiến sĩ, và lần đầu tiên trong đời, Cesare thấy được là chính mình.
Nếu như chỉ quan tâm đến bản thân, Cesare có lẽ đã vui vẻ rong ruổi cùng quân Pháp cho đến khi họ chinh phục Naples. Nhưng vì vừa là con của Giáo hoàng vừa là hồng y, chàng còn có nhiều vấn đề khác phải xem xét. Chàng biết rằng mặc dầu Giáo hoàng Alexander và vua Charles đã kí hiệp ước, nhưng cha chàng không muốn nước Pháp hay bất kì thế lực ngoại bang nào kiểm soát dù chỉ là một phong ấp nhỏ nhất trên đất Ý. Chắc chắn trong lúc này, khi chàng có mặt trên sa trường và tiến về Naples thì Alexander đang hội kiến với các sứ thần của Tây Ban Nha, Venice, Milan và Florence, mưu đồ tạo dựng một Liên minh thần thánh giữa các thành bang nhằm kháng cự lại cuộc xâm chiếm của ngoại bang trên đất Ý.



Chàng cũng biết rằng ngay cả khi chàng đang cùng quân Pháp tiến đến Naples, Tây Ban Nha đang chuẩn bị chiến thuyền và xuất quân để chặn đứng họ. Nếu quân Pháp may mắn đến được Naples và vẫn trụ vững trước các cuộc tấn công của quân Naples hung tàn khát máu, cầm cự đủ lâu để có thể chinh phục được xứ sở này, lật đổ vua Masino, thì Giáo hoàng Alexander, được vua Ferdinand của Tây Ban Nha hậu thuẫn, cùng với sự trợ giúp của Venice, có thể phục hồi vương miện và buộc quân Pháp rút lui.
Nhưng còn có một vấn đề gay go. Tất cả những chuyện này có thể hoàn thành nếu - và luôn luôn có một chữ nếu rắc rối - nếu mạng sống của Cesare không lâm nguy. Hiện đang bị giữ làm con tin, chàng nghĩ cha mình có thể sẽ lưỡng lự, thậm chí không hành động chống lại người Pháp vì chàng đang trong tay họ. Giải pháp, tất nhiên là chàng phải trốn thoát thôi. Đó là cách duy nhất giúp cha chàng thoát khỏi tình trạng tiến thoái lưỡng nan, để có quyết sách đúng đắn, kịp thời.
Nhưng tính sao với Djem đây? Lôi anh ta theo có được không? Liệu anh ta có chịu theo chàng trốn đi? Trong những ngày vừa qua, anh chàng Djem này tỏ ra vui thích với trò làm con tin cho quân Pháp. Thực tế là chỉ mới đêm trước thôi, Cesare đã nghe anh ta bù khú với đám lính Pháp trong lúc chè chén với họ và tỏ vẻ rất hào hứng khi bàn kế hoạch lật đổ chính em trai mình, ông vua đang trị vì Thổ Nhĩ Kỳ. Sẽ không dễ gì thuyết phục chàng Djem quay về thành Rome với mình, và có thể sẽ mạo hiểm nếu tin vào chàng ta.



Cesare cân nhắc những chọn lựa: một cuộc đào thoát hai người sẽ tăng gấp đôi nguy cơ, còn chàng quyết không thể thất bại. Djem không gặp nguy hiểm nào từ phía quân Pháp, bởi nếu sống, chàng ta là phương tiện giá trị để mặc cả với Giáo hoàng, với Sultan, và trong trường hợp kế hoạch của Alexander và Tây Ban Nha thất bại, chàng Djem chắc chắn sẽ là một trợ thủ rất hữu ích cho Charles trong cuộc Thập tự chinh. Chứ để chàng ta chết thì chẳng còn giá trị gì. Từ đó, Cesare quyết định.
Đêm đó, lúc gần nửa đêm, Cesare bước ra khỏi lều. Hai anh lính canh - những chàng trai trẻ mà chàng khá quen thân vì từng bù khú với nhau nhiều đêm - đang ngồi dưới đất, quanh một đống lửa trại nhỏ. Cesare chào họ. “Một đêm đẹp với trời trong và khô lạnh, đúng không nào?” Họ nhất trí, còn chàng làm bộ ngắm trời trăng mây gió. Chàng cất giọng “Trăng tròn vành vạnh, vậy mà lạ nhỉ, sao ta chẳng nghe tiếng tru nào…” Thế rồi chàng phá ra cười để họ hiểu rằng chàng đang đùa đấy thôi.
Anh lính canh lôi ra một ve rượu và thân mật mời Cesare, nhưng chàng lắc đầu và nói, “Ta có thứ ngon hơn. Chúng ta cùng thưởng thức nhé?” Và chàng quay bước vào trong lều của mình, rồi trở lại với một chai vang đỏ hảo hạng và ba chiếc cốc bạc.



Hai anh chàng mắt sáng rõ, nhận lấy cốc bạc với rượu hồng sóng sánh ánh trăng khuya, Cesare cũng tự rót một cốc cho chính chàng. Cả ba cùng gật gù chén chú chén anh dưới đêm trăng lạnh giữa sa trường, cùng ngồi bên nhau ngắm sao trời lấp lánh. Nhưng chỉ một chốc sau, hai chàng lính trẻ kia đã ngáp vắn ngáp dài. Cesare chúc họ ngủ ngon, rồi đi vào lều mình, ở đó chàng giấu cái túi nâu nhỏ mà Noni đã cho chàng và ngồi chờ đợi.
Trong vòng hai mươi phút, Cesare rón rén bước ra khỏi lều và thấy hai anh lính canh đang ngủ mê man. Thế là, phục trang đầy đủ, chàng lặng lẽ bước qua hàng dãy dài những chiếc lều để đến chỗ buộc ngựa. Ở đó một lính canh khác ngồi quay lưng về phía Cesare, trông chừng đám lính đang say ngủ. Cesare lặng lẽ chuồn đến sau lưng anh ta, đưa một bàn tay lên bụm miệng hắn để chắc ăn rằng không một âm thanh nào thoát ra. Rồi chàng nhanh chóng áp dụng một thế khóa đầu, tay siết chặt cổ họng anh ta. Không lâu sau chàng lính trẻ bất tỉnh.
Cesare tìm thấy con ngựa của mình, một con chiến mã mạnh mẽ, nhanh nhẹn, và chàng thận trọng dắt ngựa đến rìa mép của trại quân, cố gắng không gây ra tiếng động nào. Tới đó chàng nhẹ nhàng vọt người lên lưng chiến mã, cưỡi ngựa không yên như chàng từng làm thế biết bao lần trước đây khi ở Ngân Hồ. Một khi đến đường lớn, Cesare cho ngựa phi nước đại vù đi trong đêm, bay thẳng về Rome.
* * *
Ngày tiếp theo, sau khi tắm gội và thay quần áo, Cesare được dẫn vào phòng làm việc của cha chàng. Alexander đứng lên chào đón cậu con cả mà lệ giàn giụa trên đôi mắt. Giáo hoàng ôm chàng mạnh đến nỗi khiến Cesare cảm thấy ngạc nhiên.
Alexander bộc lộ tình cảm chân thành trong giọng nói. “Cesare, con ta ơi, con không thể nào tưởng tượng cực hình mà ta phải chịu đựng những ngày qua. Con đã cứu ta thoát khỏi một chọn lựa khủng khiếp nhất trong đời. Khi tập họp các thành viên của Liên minh thần thánh, ta biết rằng Charles sẽ xem chuyện đó là phá vỡ hiệp ước giữa ông ấy với ta, và do vậy ta rất lo sợ cho sự an nguy của con. Rất hiếm khi ta bị dằn vặt vì thiếu quyết đoán. Ta có nên dừng lại mọi kế hoạch liên minh, hi sinh những phần lãnh thổ và cả giáo triều? Hay là ta vẫn cứ tiến hành và chấp nhận mạo hiểm sinh mệnh con trai yêu quý của ta?”



Cesare hiếm khi thấy cha lộ vẻ khổ tâm đến thế và chàng thấy vui vui. “Rồi cha đã quyết định thế nào?” Chàng hỏi, làm ra vẻ như đùa.
“Bây giờ thì chẳng còn là vấn đề nữa rồi, con trai ạ,” Alexander cười dịu dàng, nói. “Con đã an toàn và như thế đã giải quyết thế tiến thoái lưỡng nan cho ta rồi.”
* * *
Phản ứng của vua Charles đối với chuyện Cesare trốn thoát nhẹ nhàng hơn Giáo hoàng nghĩ. Khi Alexander biết được kết quả chiến dịch chinh phục Naples, ông liền hiểu tại sao.
Quân Pháp đã chiếm được Naples; vua Masino chưa đụng trận nào, đã thoái vị và chuồn êm. Vua Charles thắng dễ như lấy đồ trong túi. Cuộc trường chinh xuyên suốt nước Ý của vua Pháp cho đến lúc đó gần như là một cuộc ngoạn cảnh du xuân thật thú vị mà không mấy nhọc công sức. Ông đã vượt qua trở lực đầu tiên trên đường chinh phục Jerusalem và lật đổ ông vua ngoại đạo. Với tâm trạng hân hoan phơi phới như thế nên nhà vua chẳng muốn bận tâm làm chi chuyện Cesare trốn thoát. Giờ đây tất cả những gì nhà vua muốn chỉ là thưởng ngoạn vẻ đẹp của xứ Naples vừa chinh phục được, thưởng thức các món đặc sản Ý, rượu ngon cùng gái đẹp. Vì Cesare đã trốn thoát, Alexander nhanh chóng khởi động các kế hoạch liên minh của mình. Giờ đây, bạo chúa Ferrante đã toi đời và Milan không còn sợ Naples xâm lược nữa, Il Moro vội sốt sắng bắt tay với Rome. Những đạo quân từ Milan và Venice bắt đầu hội quân ở phía bắc: họ đã có kế hoạch liên kết với quân Tây Ban Nha. Các chiến thuyền Tây Ban Nha sẽ đổ bộ phía dưới Naples rồi chuyển quân ngược lên bán đảo Ý.
Alexander, ngồi trên ngai vàng, cho người gọi Cesare và Duarte Brandao vào phòng ông để tu chỉnh chiến lược quân sự và những kế hoạch cho Liên minh thần thánh.
“Thưa cha, cha không sợ vua Charles sẽ coi đây là một sự xúc phạm ghê gớm khi cha bội ước về chuyện Naples hay sao?” Cesare hỏi.



Trong một thoáng Alexander trông có vẻ bối rối, rồi ông chau mày. “Bội ước gì chứ, Cesare?” Ông nói. “Con đang nói gì thế, hở con trai? Ta chỉ hứa không can thiệp chuyện hắn chinh phục Naples. Chứ có lần nào ta nói là ta cho phép hắn giữ lại xứ đó không.”
Duarte mỉm cười. “Tôi không nghĩ nhà vua trẻ có thể lãnh hội chỗ khác biệt nho nhỏ đó.”
Cesare tiếp tục, “Như vậy, kế hoạch của cha là đưa lực lượng Liên minh cắt đường thoát, khiến quân Pháp bị nghiền nát giữa quân Tây Ban Nha ở phía nam và những đạo quân từ Venice và Milan ở phía bắc?”
Duarte hỏi, “Lỡ như quân Pháp vượt qua được quân Tây Ban Nha và quân Naples để tiến về Rome thì sao?”
Alexander tỏ vẻ ưu tư. “Nếu chúng thoát khỏi các đạo quân của chúng ta ở phía nam và mở được đường tiến quân về Rome - cho dầu chỉ trong ít ngày - chúng cũng sẽ có thể gây những tổn hại nghiêm trọng. Chắc chắn chúng sẽ cướp phá thành phố…”
Duarte nói, “Và, thưa Đức Thánh Cha, lần này tôi nghi rằng khó có chuyện vua Charles sẽ ngăn cản chúng…”
Cesare suy nghĩ một hồi, rồi gợi ý. “Charles ắt phải nhận ra rằng nếu ông ta muốn giành lấy vương miện xứ Naples, ông ta phải thuyết phục cha bỏ Liên minh thần thánh. Vả chăng, muốn gì thì muốn, ông ta cũng phải được chính cha đội vương miện và ban lời chúc phúc thì mới danh chính ngôn thuận để được người dân xứ Naples thừa nhận là vua của họ, bởi cha là lãnh chúa tối cao mà.”
Alexander ấn tượng với phân tích của con trai, tuy vậy ông vẫn cảm nhận là còn điều gì đó Cesare chưa nói. “Và này, con trai, chiến lược của con là sao?”
Cesare mỉm cười một cách ranh mãnh. “Nếu vua Pháp gặp Đức Thánh Cha tại thành Rome khi rút quân, ông ta có thể nắm lấy cơ hội để buộc cha phải nhượng bộ. Nhưng nếu cha không có ở đây mà lại ở nơi khác…”
* * *
Khi toán quân tiền tiêu của Pháp vào thành đô, chúng báo cáo lại với Charles là Giáo hoàng đã đi lên phía bắc, đến Orvieto. Vua Charles quyết định thuyết phục Giáo hoàng làm theo yêu cầu của mình, nên lệnh cho quân của ông đi qua Rome và tiến đến Orvieto. Nhưng khi quân thám báo của Alexander phát hiện đội quân tiền tiêu của Pháp đang đến gần Orvieto, Alexander đã sẵn sàng. Chẳng bao lâu ông và đoàn tùy giá liền lên đường, nhanh chân đến Perugia, nơi ông sẽ gặp ái nữ Lucrezia.
Từ Orvieto, Alexander sai Don Michelotto vượt núi non đi đón con gái, bởi ông đã không thấy mặt nàng từ nhiều tháng rồi và muốn bảo đảm rằng nàng vẫn vui khỏe cũng như cùng bàn về chuyện đức ông chồng của nàng. Giáo hoàng cảm thấy nếu có Lucrezia bên cạnh chắc là mình sẽ vui hơn, sẽ giúp ông khuây khỏa trong lúc chờ kết quả cuộc xâm lăng của quân Pháp.
Vua Charles tiến vào Orvieto, nôn nao muốn thuyết phục Alexander kí một hiệp ước khác. Nhưng thất vọng với tin Giáo hoàng đã đi đến Perugia, Charles giận dữ lệnh cho quân đội ra khỏi Orvieto để tiến về Perugia.
Bỗng đâu trên đoạn đường phía trước ông nhận ra một vệ binh tiền tiêu. Người lính không kịp thở, lắp bắp thông báo rằng những toán quân của Liên minh thần thánh, đông vô kể, đang tập trung ở phía bắc. Charles phải thay đổi kế hoạch dụng binh. Sau đó, ông còn nhận tiếp một tin xấu khác. Đồng minh mới của ông, Virginio Orsini, đã bị quân Tây Ban Nha bắt. Bây giờ chúng đang tiến quân về phía nam, ngay phía sau ông.
Charles không còn có thời gian nào để đuổi theo vị Giáo hoàng lẩn như chạch này nữa. Cái bẫy mà nhà vua từng lo ngại sắp sập xuống và cả đạo quân của ông là con mồi. Không thể phí phạm thêm giây nào, ông thúc quân bất kể hiểm nguy hướng về núi Alps, qua bao gian lao và tổn thất. Họ đến vừa đúng lúc. Các đạo quân của ông phải quyết chiến một trận sống mái với bộ binh của Liên minh thần thánh để mở đường máu vượt qua biên giới trở về căn cứ địa an toàn.
Vua Charles thảm bại, kéo tàn quân về Pháp.

[/size]
trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 ) Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 )

Post by trangd Fri Oct 21, 2022 10:49 pm

Giờ đây khi Rome tạm thời bình yên, Giáo hoàng đến vùng Ngân Hồ để nghỉ ngơi một thời gian. Và ông lập tức nhắn các con đến đó gặp ông để tổ chức lễ hội gia đình.

Lucrezia từ Pesaro đến; Juan đi từ Tây Ban Nha mà không có Maria theo cùng; còn Jofre và Sancia rời Naples để đi dự tiệc. Gia đình Borgia lại cùng quần tụ bên nhau. Julia Farnese và Adriana sẽ đến trong vòng một tuần, vì Alexander đã dự định mấy ngày đầu chỉ có ông và con cái, không muốn có sự xao lãng nào.

Ở Ngân Hồ, Rodrigo Borgia đã cho xây dựng một biệt thự bằng đá uy nghi, một chòi săn với nhiều chuồng ngựa cho những con ngựa đắt giá của ông và nhiều nhà nhỏ để làm chỗ ở cho phụ nữ và trẻ em vẫn thường đi theo ông khi ông chạy trốn cái nóng mùa hạ gay gắt ở thành phố. Giáo hoàng Alexander thích được những phụ nữ xinh đẹp ăn vận lượt là vây quanh và nghe tiếng cười đùa vui vẻ của những tạo vật thanh nhã kia. Và như thế, các phu nhân trẻ tuổi có chồng đi công cán xa, cùng đi với ông, có người mang theo cả con cái. Những khuôn mặt sáng láng của trẻ thơ, còn tinh khôi và không bị nhơ nhuốc, đong đầy hồn ông những hi vọng tương lai.

Đoàn tùy tùng của ông gồm những nhà quý tộc và phu nhân của họ, đám người hầu cận, cùng lũ đầy tớ và đầu bếp, tất cả hơn một trăm người. Ngoài ra còn có nhiều nhạc công và diễn viên, những nghệ sĩ tung hứng và các anh hề, họ đều góp sức tạo nên những vở hài kịch và các màn trình diễn để Giáo hoàng thưởng thức.

Giáo hoàng Alexander dành nhiều ngày ngồi bên bờ hồ với các con. Trong khoảng thời gian yên bình đó, ông thường kể cho chúng những câu chuyện đầy phép lạ xảy ra khi bao kẻ tội lỗi từ Rome đến đây để trầm mình vào làn nước hồ này nhằm tẩy sạch những dục vọng tội lỗi của họ.

Nhiều năm trước đây, khi lần đầu ông kể những câu chuyện này, Cesare hỏi, “Riêng cha có tắm trong nước hồ này không, hở cha?”

Hồng y cười. “Không bao giờ,” ông nói. “Vì ta có phạm tội lỗi nào đâu?”

Cesare phá ra cười. “Vậy thì, con cũng như cha, chẳng có dục vọng nào phải thanh tẩy.”

Lucrezia nhìn cả hai và nói một cách ma mãnh, “Chắc là cả cha và anh đều không cần đến phép lạ?”

Rodrigo ngả đầu ra sau và phá lên cười sảng khoái. “Hoàn toàn ngược lại, con gái cưng à,” ông nói. Và rồi với một bàn tay che miệng, ông thì thầm, “Nhưng vào lúc này ta có một nhu cầu lớn hơn đối với những dục vọng trần tục và sống trong sự kinh sợ chúng bị cuốn đi quá sớm. Rồi thời điểm đó cũng sẽ đến thôi. Nhưng không phải trong lúc này, khi cơn cồn cào mong mỏi cuộc sống viên mãn vẫn còn mạnh hơn nỗi khát khao được cứu rỗi tâm hồn…” Sau đó ông cầu xin ơn trên che chở, như thể sợ mình đã làm chuyện phạm thánh.


Mỗi ngày đều bắt đầu bằng cuộc đi săn vào sáng sớm. Mặc dầu theo giáo luật, Giáo hoàng bị cấm săn bắn, nhưng ông viện lí do các thầy thuốc đã bảo rằng ông phải vận động. Riêng ông, ông đã âm thầm tự biện minh rằng mình đã làm nhiều chuyện cấm khác, nhưng phần lớn trong những chuyện đó ông không thích cho bằng chuyện đi săn. Khi người hầu lưu ý rằng vì ông mang giày ống nên thần dân không thể tỏ bày lòng tôn kính bằng cách hôn chân ông, ông nói đùa rằng ít ra chuyện đó cũng ngăn mấy con chó săn đớp mất ngón chân ông.

Quanh căn biệt thự săn bắn, một trăm sào đất đã được đánh dấu bằng hàng rào làm bằng trụ gỗ và các mảnh vải buồm dày, tạo thành một vùng lãnh thổ nhỏ hấp dẫn các loài thú tụ tập lại. Trước mỗi cuộc săn, những miếng thịt sống được xếp thành đống gần cánh cổng lớn của bãi rào kín để dẫn dụ các con thú.

Trời vừa rạng đông, những người đi săn đã tụ tập đầy đủ. Họ uống một cốc rượu mạnh Fracasti để lên dây cót và lấy dũng khí, Alexander vẫy lệnh kì giáo triều. Với những tiếng kèn trumpet vang vang và nhịp trống rộn ràng, các cánh cổng của bãi rào thú săn được mở ra. Một tá tay săn thú vội chạy vào trong, rải một hàng thịt sống để các con thú chạy ùa qua cổng, đến nơi chúng nghĩ là vùng tự do. Nào là nai, chó sói, lợn lòi, thỏ, nhím - tất cả đều được các thợ săn chào đón. Vung gươm giáo trong tay, và cả những chiếc rìu trận khát máu, toán thợ săn đuổi bắt những con mồi.

Lucrezia và Sancia cùng những người hầu gái của họ, ngồi an toàn trên một bục cao để theo dõi cuộc chém giết mà không gặp nguy hiểm nào. Phụ nữ có mặt trong cuộc săn với mục đích tạo cảm hứng và khích lệ những người đi săn thêm hăng máu, nhưng Lucrezia thấy ghê sợ, che mắt lại và quay mặt qua chỗ khác. Phần nào đó trong nàng đau đớn trước số phận của những con vật tội nghiệp kia vì nó tương tự như chính số phận nàng. Ngược lại, Sancia không cảm thấy gì ngoài một cuộc phô diễn; nàng ta tỏ ra thích thú với cảnh tượng này, không ngoài dự đoán nàng ta còn đưa chiếc khăn tay bằng lụa cho ông anh chồng Juan để nhúng vào máu của con heo rừng bị phanh thây. Dẫu không sử dụng vũ khí thiện nghệ như Cesare nhưng Juan lại hứng thú với những trò tàn ác và nhu cầu gây ấn tượng mạnh lên kẻ khác, nên chàng ta trở thành kẻ đi săn hăng tiết nhất trong gia đình. Chàng ta phô diễn lòng gan dạ bằng cách hiên ngang đứng chờ con heo rừng đực to tướng lao tới và đâm vào nó bằng giáo, sau đó đập nó bằng rìu. Chàng ta có vẻ hả hê.

Cesare cưỡi ngựa băng qua trường săn cùng hai con chó săn yêu thích của chàng, Heather và Hemp. Dẫu đang làm bộ đi săn nhưng thực ra, điều làm Cesare thực sự hứng thú là quất ngựa phóng theo các con chó săn và ngày hôm nay chàng rối bời với bao ý nghĩ. Chàng ganh tị với Juan. Em chàng có thể sống một cuộc đời viên mãn, một cuộc sống bình thường và chờ đợi một binh nghiệp hiển hách, trong khi bản thân Cesare phải gắn liền đời mình với nhà thờ, một sự nghiệp mà chàng không chọn và cũng chẳng muốn. Mật đắng trào lên cổ họng, chàng cảm thấy lòng căm ghét đứa em trai càng dâng cao. Nhưng lửa giận nhanh chóng nguội lạnh, chàng tự trách mình về những gì vừa nghĩ. Một người tốt, đặc biệt là một người đang mặc áo thầy tu, càng không bao giờ có thể ghét em ruột của mình. Không chỉ vì điều đó là phản tự nhiên, không chỉ vì chuyện đó làm cha chàng khổ tâm, mà còn nguy hiểm nữa. Juan, với tư cách thống soái quân đội giáo triều, nắm quyền lực mạnh hơn bất kì vị hồng y nào của Giáo hội Công giáo. Và còn một sự thật khác nữa: ngay cả sau bao nhiêu năm tháng chứng tỏ tài năng vượt trội trong nhiều lãnh vực và cống hiến lòng tận tụy với cha và cho sự nghiệp chung, thế mà, vẫn là Juan, chứ không phải chàng, là đứa con được cha ưu ái.

Cesare, đang chìm sâu trong trầm tư, bỗng nhanh chóng được kéo về thực tại vì tiếng gào rú thảm thiết của con chó săn của chàng. Phi ngựa tiến về phía âm thanh thê thảm kia, chàng bỗng thấy con vật yêu quý của mình bị một ngọn giáo ghim vào đất. Nhảy xuống ngựa để giúp cho con vật bị thương, chàng thấy khuôn mặt điển trai của chú em Juan méo xệch vì giận dữ. Chàng liền hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra. Juan đã phóng hụt mũi giáo, thay vì vào con nai đang chạy cuống cuồng loạn xạ,

lại ghim ngay vào con chó săn của chàng. Trong một thoáng, Cesare nghĩ có thể cú phóng là cố ý, nhưng lúc đó chú em cưỡi ngựa đến bên chàng và nói lời xin lỗi, “Thưa anh, em sẽ mua một cặp khác để đền cho anh.”

Trong tay hãy còn cầm mũi giáo vừa được rút ra khỏi mình con vật, Cesare nhìn vào con chó bị tử thương và trong một thoáng, cảm thấy trào dâng cơn giận chết người. Sau đó chàng thấy cha mình phi ngựa đến nơi một con lợn lòi bị mắc vào lưới bằng dây thừng đang chờ cú đâm kết liễu từ ngọn giáo của ông. Nhưng Giáo hoàng cho ngựa chạy ngang qua và la lên, “Con này mắc bẫy rồi, ta phải tìm con mồi khác thôi…” Ông thúc mạnh chân vào hông ngựa rồi vọt đi để đuổi theo một con lợn lòi lớn khác. Những người đi săn khác, lo lắng khi thấy Giáo hoàng phóng ngựa quá nhanh, bất chấp hiểm nguy, vội vàng vọt lên theo để bảo vệ ông; nhưng ngay lúc đó Giáo hoàng, vẫn còn rất cường tráng và sung sức, đã đâm xuyên mũi giáo lút sâu vào bên hông con lợn lòi, ban cho nó một vết thương trí mạng. Giáo hoàng bồi tiếp hai nhát nữa, xuyên qua trái tim con vật đang hấp hối. Con lợn thôi giãy giụa và đám thợ săn tùy tùng lao vào xác con vật để xẻ thịt nó.

Cesare theo dõi màn trình diễn dũng cảm của cha và ngạc nhiên trước sức khỏe hiếm thấy của ông, chàng cảm thấy tự hào về cha mình. Nếu như bản thân Cesare đang không làm được những gì chàng muốn với cuộc đời mình, ít ra chàng cũng đang làm những gì cha chàng muốn và chàng biết đó là nguồn vui cho Alexander. Và khi nhìn vào con vật vừa bị hạ gục, chàng nghĩ quả là may mắn khi chàng trở thành người theo ý cha mình.

* * *

Vào lúc hoàng hôn, Cesare và Lucrezia tay trong tay dạo bước bên làn nước lấp lánh của bờ hồ. Cặp anh em này quả là rất đẹp đôi, dáng vẻ cao ráo, cường tráng của chàng tương phản với mái tóc vàng và đôi mắt màu hạt phỉ vốn thường ánh lên vẻ thông minh và tinh nghịch của nàng. Tuy nhiên, đêm nay nàng lộ vẻ ưu phiền.

Lucrezia nói, “Quả là một sai lầm, Cesare à, khi Papa buộc em phải lấy Giovanni. Hắn ta không phải là người tốt. Hắn ít khi nói chuyện với em, và khi mở miệng, hắn toàn nói ra những lời thô lỗ, cộc cằn. Em không biết mình còn có thể hi vọng được gì. Em biết rằng hôn nhân giữa em và hắn là vì lợi ích chính trị, nhưng em không nghĩ mình sẽ

bất hạnh đến thế.”

Cesare cố gắng giữ vẻ từ tốn. “Này Crezia, em biết rằng Ludovico Sforza vẫn còn là nhân vật quyền lực nhất Milan. Giovanni giúp gắn kết mối quan hệ của chúng ta với gia tộc đó tại một thời điểm quyết định.”

Lucrezia gật đầu. “Em hiểu mà. Tuy nhiên, hồi đó em cứ tưởng rồi mình sẽ thay đổi suy nghĩ. Nhưng ngay cả khi em và hắn quỳ trên những chiếc ghế bằng vàng kia, trong cái đám cưới xa xỉ nọ, và nhìn qua con người sẽ là chồng em, em biết việc đó là sai lầm kinh khủng. Em không biết nên cười hay nên khóc khi nhìn vào các vị hồng y khoác chiếc áo choàng đỏ thẫm và đám phù rể trong trang phục Thổ Nhĩ Kỳ thêu chỉ bạc. Tất cả nhằm tạo nên một lễ hội linh đình, ấy thế mà không hiểu sao em lại thấy tủi thân quá chừng.”

“Thế chẳng có cái gì làm em hài lòng sao?” Chàng mỉm cười hỏi.

“Có chứ,” nàng đáp. “Chính là anh trong trang phục màu đen. Và những chiếc thuyền gondola của Venice tạo ra từ hai mươi ngàn đóa hồng.”

Cesare dừng lại và đối mặt em gái. “Anh không thể chịu nổi, Crezia à,” chàng nói. “Anh không thể chịu nổi ý nghĩ em trong tay người khác, cho dầu vì lí do gì. Giá như anh có thể đi xa và không phải dự phần vào vở kịch thảm hại đó. Nhưng Papa đã quyết liệt nhấn mạnh là anh phải có mặt ở đó. Ngày hôm đó trái tim anh nặng trĩu tối tăm như trang phục của anh vậy…”


Lucrezia dịu dàng hôn vào môi anh mình. “Giovanni là một kẻ huênh hoang ngạo mạn,” nàng nói. “Và hắn là một người tình khủng khiếp. Em khó thoát khỏi những vồ vập của hắn ngoại trừ những lúc khóc suốt như một cành liễu rũ. Ngay cả cái mùi toát ra từ thân thể hắn em cũng không chịu nổi.”

Cesare cố gắng giấu một nụ cười tủm tỉm. “Ngủ với hắn chắc là không thích bằng với anh?”

Lucrezia vọt miệng cười khúc khích. “Người yêu dấu ơi, đó là sự khác biệt giữa thiên đàng và địa ngục đối với em.”

Lúc họ bắt đầu dạo bước trở lại, họ đi qua một chiếc cầu nhỏ và bước vào khu rừng. “Chồng em làm anh nhớ đến chú Juan nhà ta.” Cesare nói.

Lucrezia lắc đầu. “Juan còn trẻ. Rồi anh ấy sẽ trưởng thành. Thật phúc cho em khi có anh làm anh trai, nhưng Juan thì không.”

Cesare yên lặng một lúc, nhưng khi cất lời, chàng nói bằng một giọng rất nghiêm túc. “Nói thật, anh tin rằng em Jofre còn gây tai ương cho gia đình hơn cả Juan. Anh chấp nhận sự đần độn của nó nhưng cái gia đình mà nó và Sancia tạo dựng là cả một nỗi ô nhục. Hơn một trăm người hầu cho chỉ hai đứa chúng nó! Đĩa ăn bằng vàng và cốc rượu bằng châu ngọc cho hai trăm người khách bất cứ khi nào chúng muốn! Quả là điên rồ và chuyện đó gây ảnh hưởng xấu đến gia đình chúng ta. Quan trọng hơn nữa, con của một Giáo hoàng mà lại sống phóng túng, quái dị như vậy thì đúng là nguy to.”


Lucrezia nhất trí. “Em biết, Chez. Cha cũng rối trí vì chuyện đó, mặc dầu ít khi cha công khai nói ra. Nhưng cha không yêu Jofre bằng yêu chúng ta, và vì biết điểm yếu, tính thiếu hiểu biết của nó nên ông càng dễ tha thứ cho nó.”

Cesare lại thêm một lần dừng bước để nhìn Lucrezia dưới bầu trời sáng trăng. Làn da trơn mịn như gốm sứ của nàng dường như lung linh hơn thường lệ. Cesare nhẹ nhàng nâng khuôn mặt nàng lên để chàng có thể nhìn vào đôi mắt nàng. Nhưng dường như chàng thấy nỗi sầu muộn trong đáy mắt em gái khiến chàng phải nhìn lảng ra xa. “Crezia,” chàng kêu lên, em có muốn anh nói chuyện với Papa về chuyện li dị với Giovanni? Papa cưng em nhất nhà. Có thể Papa chấp nhận giải pháp ấy. Em nghĩ Giovanni có ưng thuận không?”

Lucrezia cười với anh mình. “Em tin chắc chồng em có thể dễ dàng sống mà không cần có em; hắn chỉ tiếc nhớ món hồi môn thôi. Vàng trên tay mới là thứ quyến rũ hắn, chứ không phải vàng nơi mái tóc em.”

Cesare cười vì tính thẳng thắn của nàng. “Anh sẽ chờ đúng thời điểm, và lúc ấy anh sẽ trình bày vấn đề với Papa.”

* * *

Bóng tối chầm chậm buông xuống Ngân Hồ, Juan bắt đầu chỉ cho Sancia, vợ của Jofre, căn nhà săn trước đây của cha mình. Giờ đây ít khi nó được dùng đến vì căn nhà săn mới - đẹp hơn, thanh lịch hơn - đã được xây xong.

Sancia cùng tuổi với Juan nhưng có vẻ kém chín chắn hơn nhiều. Cô nàng có một vẻ đẹp cổ điển của hoàng gia Aragon với đôi mắt xanh đậm, hai hàng lông mi đen dài, tóc đen óng mượt. Phong thái nhẹ nhàng, hơi tinh quái, gây cho người khác ấn tượng về một cô gái thích bông đùa. Thật ra, đó chỉ là tính tự phụ nông cạn, một kế sách cũ rích dùng để mồi chài những kẻ ngây thơ…

Juan nắm tay Sancia đi xuống con đường cây cỏ mọc um tùm dẫn đến khoảng rừng thưa. Ở đó nàng thấy căn chòi bằng gỗ thông đẽo gọt qua loa với một ống khói bằng đá.

“Không phải là nơi thích hợp cho một nàng công chúa,” Juan nói, mỉm cười với nàng. Bởi xét cho cùng nàng vẫn là con gái vua Masino xứ Naples và như vậy đích thực là công chúa.

“Em nghĩ là nơi đáng yêu đấy chứ,” Sancia đáp lời, vẫn còn níu tay Juan.

Khi đã vào nhà, Juan nhóm lò lửa lên trong lúc Sancia đi quanh phòng nhìn ngắm những chiếc đầu thú treo trên tường làm chiến lợi phẩm. Nàng dừng lại và gõ vào chiếc tủ gương trang điểm làm bằng gỗ cây ăn quả, cái hộp đầu giường trên chiếc giường phủ nệm lông vũ và những đồ trang trí nội thất đẹp kiểu thôn dã, với nước bóng màu vàng chứng tỏ đã qua nhiều năm sử dụng và lau chùi cẩn thận.

“Tại sao cha vẫn để nơi đây đủ đồ trang trí nội thất, nếu nó không còn được sử dụng nữa?” Nàng thắc mắc.


Juan đang quỳ lom khom trước lò lửa, nhìn lên và mỉm cười. “Thi thoảng cha vẫn còn sử dụng căn chòi này đấy chứ, mỗi khi cha có người khách nào mà cha muốn được riêng tư với người ấy… như anh hiện giờ đây này.” Juan đứng lên, bước qua căn phòng, đến bên nàng. Chàng nhanh chóng kéo nàng sát vào người, vòng tay ôm trọn quanh nàng. Rồi chàng hôn nàng. Trong một lúc nàng lặng yên, nhưng sau đó nàng nghiêng người ra xa và thì thầm, “Không, không, em không thể. Jofre sẽ…”

Nỗi khao khát của Juan thúc giục chàng ta lôi kéo Sancia càng sát vào hơn trong lúc chàng ta vội vã thì thầm bằng một giọng khàn khàn, “Jofre sẽ chẳng làm gì cả! Nó chẳng làm được cái quái gì đâu!”

Juan có thể không thích anh cả Cesare, nhưng vẫn coi trọng trí thông minh và kiêng dè dũng lực của ông anh. Chứ còn đối với chú nhóc Jofre thì chàng chẳng coi ra cái thá gì.

Giờ đây, Juan lại kéo cô vợ của chú em mình vào sát hơn nữa. Đưa bàn tay táy máy bên dưới chiếc váy trắng khá ngắn của nàng, chàng vuốt ve sờ soạng cái đùi nõn nường rồi đưa các ngón tay mình ngược dần lên, chà xát nhẹ nhàng cho đến khi chàng cảm nhận phản ứng hứng tình của nàng. Thế là chàng kéo nàng đến chiếc giường kế bên.

Chỉ vài giây sau là họ đã nằm xuống bên nhau. Được chiếu sáng bởi ngọn lửa chập chờn từ trong lò hắt ra, mái tóc đen dài của Sancia xõa ra trên gối trông nàng thật đẹp và chiếc váy nàng bật tung lên cao càng thiêu đốt lửa dục vọng của Juan thêm phừng phừng. Chàng nhanh chóng leo lên người nàng. Khi chàng thọc vào nàng, rồi từ từ rút ra, chàng nghe nàng rên rỉ. Nhưng nàng không kháng cự; thay vì thế nàng hôn chàng đắm say hết lần này đến lần khác, uống từ miệng chàng như trong cơn khát khao không thỏa. Juan bắt đầu đẩy vào sâu hơn, đâm thọc mạnh và dài hơn, nhấn càng lúc càng sâu lút cán vào người cô em dâu, xua đi khỏi đầu óc Sancia mọi ý nghĩ từ chối và về Jofre - đưa nàng vào cơn mê ái tình, say sưa, mụ mẫm.

* * *

Chiều tối hôm đó, Giáo hoàng và gia đình dùng bữa tối muộn ngoài trời bên bờ Ngân Hồ. Những ngọn đèn lồng nhiều màu sắc được treo trên cây, và trên các trụ gỗ cao dọc bờ hồ, bập bùng ánh đuốc. Số thú săn mà họ xẻ thịt làm nên một bữa đại tiệc vô cùng thịnh soạn chẳng những đủ để thết đãi cả một trăm thành viên thuộc đoàn tùy tùng của Giáo hoàng mà vẫn còn lại khá nhiều để chia cho người nghèo ở chung quanh. Sau tiết mục giúp vui của những nghệ nhân tung hứng và các nhạc công trong bữa tiệc, Juan và Sancia cùng đứng lên hát một bản song ca.

Cesare, ngồi kế bên Lucrezia, ngạc nhiên tự hỏi không biết hai cô cậu này tìm được thời gian khi nào để tập luyện với nhau, bởi họ hát với nhau rất ăn ý và cũng khá hay. Thế nhưng cậu em, chồng của Sancia, lại tỏ ra vui vẻ vỗ tay rối rít. Cesare cứ ngạc nhiên tự hỏi không biết chú em Jofre này ngốc thật hay giả vờ nữa xét theo những gì mà chú ta tỏ ra. Giáo hoàng Alexander hứng thú việc đàm đạo cũng chẳng kém gì việc đi săn, chuyện ăn uống hay thưởng ngoạn mĩ nhân. Sau bữa tiệc tối, khi màn hài kịch của các diễn viên và màn ca múa bắt đầu, Alexander thuyết giảng cho các con. Một diễn viên trong vai nhà quý tộc nghèo hèn, trong lúc bạo gan ngẫu hứng, tính khí thường thấy ở những con người lập dị này, đã ứng khẩu đặt vấn đề rằng, tại sao một Đức Chúa Lòng Lành lại nỡ nhẫn tâm giáng những điều bất hạnh cho những kẻ đầy đức tin? Tại sao Người lại cho xảy ra lụt lội, hỏa hoạn, dịch bệnh? Làm thế nào mà Người có thể để mặc cho những trẻ thơ vô tội phải chịu những trò tàn ác ghê rợn? Tại sao Người có thể cho phép con người, vốn được tạo ra theo hình ảnh của Chúa, lại đi gieo rắc thảm họa lên đồng loại của mình?

Alexander nhận lời thách thức. Vì đang ngồi cùng với người thân, bạn bè, ông chọn cách không dựa vào kinh Thánh để chứng minh luận điểm của mình. Mà ông thuyết minh, diễn giải như một triết gia Hy Lạp, La Mã hay như một thương gia xứ Florence.

“Điều gì sẽ xảy ra nếu như Chúa hứa hẹn một Thiên đàng đạt được dễ dàng, không phải qua đau khổ, ngay trên mặt đất này?” Ông nói. “Nếu như thế, Thiên đàng sẽ chẳng có giá trị gì nhiều. Chứng lí nào sẽ kiểm nghiệm lòng thành và niềm tin của con người? Không có Luyện ngục thì cũng không có Thiên đàng. Vậy con người sẽ gây ra tội ác kinh thiên động địa đến mức nào? Con người sẽ nghĩ ra biết bao phương cách để hủy diệt nhau, có lẽ ngay cả trái đất này cũng không còn. Những thành tựu không phải qua đau khổ thì chẳng có giá trị gì. Những thành tựu đạt được quá dễ thì không đáng kể. Lúc đó con người sẽ là một tay cờ bạc bịp, chơi ván bài cuộc đời với con xúc xắc mài lệch mặt và những lá bài được đánh dấu. Hắn chẳng khá gì hơn đám thú dữ mà chúng ta huấn luyện. Nếu không có tất cả những chướng ngại mà chúng ta gọi là bất hạnh, thì Thiên đàng còn có hứng thú gì? Những bất hạnh đó lại chính là bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa, của tình yêu mà Người dành cho nhân loại. Còn đối với những chuyện con người gây ra cho nhau, chúng ta không thể đổ lỗi cho Chúa. Mà chúng ta phải tự trách bản thân mình và phải trả giá nơi Luyện ngục.”

“Thưa cha,” Lucrezia hỏi ông, bởi trong số các con ông, nàng là đứa quan tâm nhất đến những vấn đề về đức tin và điều thiện, “nhưng như vậy thì sự dữ là gì?”

“Quyền lực là sự dữ, con ạ,” ông nói. “Và nhiệm vụ của chúng ta là xóa sổ dục vọng đó khỏi con tim và trí tuệ của con người. Điều đó, Giáo hội Thần thánh có thể làm được. Nhưng chúng ta không bao giờ có thể xóa bỏ quyền lực của xã hội, trong xã hội. Vì vậy chúng ta không bao giờ có thể xóa bỏ sự dữ khỏi xã hội văn minh. Bất công sẽ mãi tồn tại, người thường sẽ mãi chịu khổ đau. Có thể là trong năm trăm năm sau con người sẽ không còn lừa lọc và giết hại lẫn nhau, ôi, ngày hạnh phúc đó bao giờ sẽ đến?”

Sau đó ông nhìn thẳng vào hai đứa con Juan và Cesare và tiếp tục. “Nhưng trong chính bản chất của xã hội, để giữ cho một dân tộc đoàn kết vì Chúa và vì Tổ quốc của họ, một ông vua có lúc cần treo cổ hay thiêu sống những thần dân phản nghịch để uốn nắn chúng. Bởi con người cũng ương ngạnh khó bảo như thiên nhiên, và có những con quỷ không sợ nước thánh.”

Alexander nâng li mời, “Kính mừng Giáo hội Đức Mẹ Thần thánh và chúc mừng gia đình chúng ta. Cầu mong chúng ta thịnh vượng khi chúng ta rao truyền lời Chúa khắp thế gian.”

Mọi người nâng li và hô lớn, “Chúc mừng Giáo hoàng Alexander! Xin Thượng Đế ban phước lành cho ngài, ban cho ngài sức khỏe, hạnh phúc và trí tuệ sáng láng của vua Solomon và của các đại triết gia.”


Sau đó phần lớn đoàn tùy tùng rút lui về các khu của họ, vào trú trong những căn lều bên bờ hồ; trên mỗi căn lều hiệu kì của nhà Borgia tung bay với hình ảnh con bò rừng đỏ đang lao tới. Lửa được nhóm lên để thắp sáng và hai bên bờ Ngân Hồ, các cổng vòm gỗ rực sáng ánh đuốc rừng rực cháy.

* * *

Trong khu của mình, Jofre đi tới đi lui, mặt mày sưng sỉa, làm thinh vì bực tức. Cô vợ Sancia cả đêm đó không về nhà. Trong bữa tiệc, lúc cậu lại gần vợ bảo cô ta về nhà cùng thì cô vợ từ chối với một nụ cười khẩy ra ý nhạo báng, và xua tay ra hiệu đuổi đi. Khi nhìn vào khuôn mặt mọi người chung quanh, Jofre ngượng chín mặt, mắt cay xè.

Ngày hôm đó ở Ngân Hồ quả là một trận sỉ nhục cho chàng ta, mặc dầu dường như mọi người đang ăn uống cười đùa thỏa thích, vui vẻ với nhau nên có thể chẳng ai để ý đến cậu. Cậu đã vỗ tay, tất nhiên rồi, và mỉm cười - như nghi thức cung đình buộc phải thế - nhưng hình ảnh vợ cậu cùng với ông anh Juan ngạo mạn song ca tình tứ làm cậu nghiến răng kèn kẹt và chẳng còn thấy vui thú gì với âm điệu ngọt ngào của bài hát.

Jofre thui thủi một mình quay về căn lều dành cho hai vợ chồng. Sau khi cố dỗ giấc ngủ và rồi thấy không thể nào ngủ được, cậu ra ngoải tản bộ hầu dẹp yên cơn bồn chồn. Tiếng côn trùng rên rỉ trong đêm trường tịch mịch nơi lùm cây bụi cỏ giúp cậu cảm thấy đỡ cô đơn. Cậu ngồi bệt lên mặt đất, cảm nhận hơi mát lạnh của đất, và cậu thấy lòng mình nguôi ngoai. Và cậu nghĩ về cha mình, Đức Giáo hoàng, và các anh chị mình…

Cậu vẫn luôn biết rằng mình chẳng thông minh tài giỏi được như anh cả Cesare, còn sức lực thì không bằng Juan. Nhưng tận sâu trong thâm tâm, cậu hiểu điều mà hai anh mình không hiểu được. Rằng những tội lỗi mà cậu phạm phải - thói phàm ăn tục uống và hoang phí quá độ - những thói xấu đó chưa phải là tội trọng so với thói độc ác của Juan hay tham vọng của Cesare.

Còn trí tuệ sắc sảo thì sao? Nó có quyết định cuộc đời ta sẽ đi theo hướng nào không? Chị cậu, Lucrezia, hơn xa cậu xét về mặt trí tuệ, nhưng chị ấy đâu có quyền lựa chọn gì nhiều cho cuộc đời mình, có khác gì cậu đâu. Ngẫm về gia đình mình, Jofre đi đến kết luận là trí thông minh không thể sánh được với lời khuyên từ một trái tim thuần khiết và một tâm hồn thánh thiện.

Juan vẫn luôn luôn là kẻ xấu tính nhất trong mấy anh chị em, ngay từ thuở còn thơ ấu và chỉ chịu chơi những trò chơi nào mà chàng ta biết mình có thể thắng dễ dàng. Do mang trên mình nghĩa vụ của một hồng y, nên đôi khi Cesare phải la mắng Jofre về cái tội quá độ nhưng với thái độ tử tế, khác với thói độc ác và khao khát sỉ nhục như Juan. Còn chị Lucrezia là người Jofre yêu thương nhất vì chị luôn đối xử với cậu thân tình và dịu dàng, luôn làm cho cậu cảm thấy chị vui vẻ khi ở cạnh mình. Còn ông bố Giáo hoàng hiếm khi tỏ ra quan tâm tới cậu.

Giờ đây, lại cảm thấy bất an, Jofre quyết định đi tìm Sancia. Cậu sẽ thuyết phục nàng cùng quay về căn lều của họ. Cậu đứng dậy và bắt đầu đi vào lối đi hẹp giữa các hàng cây, khiến trong một thoáng, cậu bình tĩnh lại. Nhưng ở bên rìa khu cắm trại, dưới bầu trời đêm, cậu thấy hai cái bóng đen. Cậu định kêu lên để chào họ, nhưng rồi một cái gì đó khiến chàng ngưng lại.

Chàng nghe tiếng cười của dâm phụ trước khi thấy rõ nàng ta. Sau đó trăng đêm sáng vằng vặc soi rõ mặt ông anh đểu cáng Juan và cô vợ Sancia đang tay trong tay tản bộ ngắm trăng. Lẳng lặng quay gót, cậu đi theo họ trở về hướng căn lều. Ở đó cậu thấy cảnh tượng Juan và Sancia dừng lại ôm hôn nhau. Jofre bĩu môi khinh miệt. Cậu cố trấn tĩnh, lặng yên bất động trong lúc theo dõi anh mình cúi xuống hôn vợ mình say đắm khi từ biệt.

Vào lúc đó Jofre thấy Juan thật đáng khinh. Nhưng còn hơn thế, cậu thấy nơi Juan một điều gì đó thật xấu xa, tội lỗi. Và thế là, với quyết tâm dứt khoát, trong trái tim mình cậu lên án hắn và thề không còn coi hắn là anh của mình nữa. Bỗng nhiên cậu thấu suốt mọi chuyện, không còn chút nghi ngờ nào nữa. Hạt giống của Chúa Jesus được gieo vào trong tử cung của Đức Mẹ Đồng Trinh bởi Chúa Thánh Thần, và đã đặt luôn vào đó cả mầm tội lỗi mà không hay biết và chẳng nhận ra - cho đến lúc đơm hoa kết quả, mọi thứ mới được phơi bày.

Bấy giờ, ông anh Juan dợm bước rời đi, và trong cơn hứng chí hiếm hoi, chàng ta rút con dao găm ra khỏi vỏ, nhanh nhẹn xoay tròn. Rồi chàng ta cười khoái chí trong khi lớn tiếng huênh hoang với Sancia, “Không lâu nữa đâu ta sẽ là thống soái quân đội giáo triều và lúc đó em sẽ thấy ta tung hoành ra sao!”

Jofre lắc đầu và cố gắng kiềm chế cơn giận. Sau một lúc cậu cũng bình tâm lại. Lúc đó, với sự bình thản khác thường, cậu lí luận: những cuộc chiến vô nghĩa để tranh giành quyền lực chính trị có gì là thú vị, và thực tế chúng làm ta phát chán. Còn dùng vũ khí để lấy đi mạng sống của người khác, chấp nhận nguy cơ đày đọa đời đời vì một mục tiêu quân sự nào đấy cũng là chuyện vô nghĩa. Để đánh liều như vậy, cậu nghĩ cái giá phải quý hơn thế và có mục đích riêng.

* * *

Cesare cũng đang bồn chồn bất an. Cuộc nói chuyện với Lucrezia khiến lòng chàng nặng trĩu và không thể nào chợp mắt. Dò hỏi, chàng được biết Giáo hoàng đã lui về khu của ông. Tuy thế, chàng cảm thấy phải thưa chuyện với cha.

Trong dãy phòng riêng của mình, Giáo hoàng đang ngồi trước bàn làm việc, đọc và kí duyệt các văn thư chính thức được hai người thư kí trình lên. Ông cho họ ra ngoài khi Cesare bước vào phòng. Ngạc nhiên trước năng lượng dồi dào của cha, Cesare bước về phía ông để nhận một cái ôm. Một ngọn lửa lớn do năm súc gỗ cháy tạo nên, sáng rực trong lò sưởi khổng lồ.

Giáo hoàng đã mặc đồ ngủ: một áo ngủ dài bằng len, phủ bên ngoài là áo lụa thêu hoa văn phong phú, và được viền lông thú mà ông nghĩ sẽ giúp giữ thân nhiệt và bảo vệ ông chống lại những cơn gió độc gây sốt rét ở Rome. Trên đầu ông đội một mũ hình vuông nhỏ màu hồng ngọc, không trang sức. Alexander thường nói rằng mặc dầu một Giáo hoàng, vì lí do quốc thể, phải luôn luôn phô bày sự giàu sang của Giáo hội trước công chúng, nhưng ít nhất ông cũng có thể ngủ giản dị như một nông dân.

“Và con gái ta tâm sự chuyện gì với người anh thân yêu nhất của nó?” Giáo hoàng hỏi. “Có phải nó than phiền về chồng nó?”

Cesare hiểu ngay cái giọng bóng gió trêu chọc của cha; tuy thế chàng vẫn ngạc nhiên sao cha lại biết được nỗi lòng của Lucrezia. Cesare trả lời, “Em nó than sống không hạnh phúc với chồng.”

Trong một thoáng, Alexander có vẻ trầm tư. “Cha cũng phải công nhận chính bản thân cha cũng không còn được vui với cuộc hôn nhân của con gái. Nó không phục vụ được mục đích chính trị như ta từng hi vọng.” Ông có vẻ vui khi có cơ hội nói về chuyện này. “Xét kĩ ra thì cái tên Sforza đó đem lại lợi ích gì cho chúng ta? Ta chưa bao giờ thực sự thích hắn, hắn chẳng đáng giá gì trong tư cách một người lính. Và giờ đây Il Moro cũng chẳng mang lại giá trị gì cho chúng ta, lòng trung thành của hắn dễ lung lay và không phải lúc nào cũng đáng tin cậy. Hẳn nhiên là hắn cũng là một nhân vật ta phải tính đến, bởi chúng ta cần có hắn trong Liên minh thần thánh. Nhưng hắn quả là không thể nói trước. Tuy thế, chúng ta cũng còn phải xem xét cảm nhận của em con nữa. Con nhất trí chứ?”

Cesare nghĩ là Lucrezia sẽ mừng biết mấy khi biết cha nghĩ thế và điều đó khiến chàng rất vui. Nàng sẽ nghĩ chàng là người hùng giải vây cho nàng khỏi hoàn cảnh bất như ý. “Chúng ta sẽ tiến hành như thế nào đây?”

Alexander tiếp tục. “Vua Ferdinand đã yêu cầu ta làm sao cho hoàng gia Naples thành bạn của mình. Chắc chắn là, mặc dầu cuộc hôn nhân của Jofre với Sancia đã đưa nó vào chung trận tuyến với Naples, điều đó chưa hẳn đã phục vụ chúng ta. Mà trên thực tế, có thể gây hại cho chúng ta nữa. Trừ phi…” Giáo hoàng mỉm cười trước khi tiếp tục. “Chúng ta có thể sửa chữa vết nứt đó với vài liên minh mới.”

Cesare nhíu mày. “Cha bảo sao? Con chưa hiểu rõ lắm.”

Đôi mắt Alexander ngời lên, và trông ông có vẻ thích thú với cảm hứng vừa chợt đến. “Anh của Sancia. Alfonso. Giờ đây, đấy có thể là một đám đáng giá hơn rất nhiều cho Lucrezia. Xúc phạm đến nhà Sforza luôn luôn là chuyện không hay nhưng trong tình thế này cũng đáng để cân nhắc. Bảo với em gái con là ta sẽ xem xét việc thay đổi này.”

Alexander đẩy chiếc ghế của ông ra xa khỏi bàn giấy và đứng dậy đi ngang qua phòng để cời lửa lên bằng chiếc que móc bằng gang nằm trên nền đá phía trước ông. Khi quay lại phía con trai, ông nói, “Cesare này, con hiểu rằng chúng ta phải kiểm soát những lãnh thổ thuộc giáo triều. Nhiều đại diện tòa thánh lại giống như những lãnh chúa tham tàn, ưa đánh nhau để tranh giành lãnh địa, chống lại tính bất khả ngộ của Giáo hoàng, áp bức và vắt kiệt sức dân. Chúng ta phải làm sao khép chúng vào kỉ cương nền nếp, chứ không thể chấp nhận tình trạng hỗn loạn tôn ti thượng hạ như thế.”

Cesare thăm dò, “Và cha đã có kế hoạch?”

“Các vua Pháp và Tây Ban Nha đều đã thống nhất những vùng lãnh thổ của họ theo mô hình trung ương tập quyền. Chúng ta cũng phải làm thế. Đó là chuyện bắt buộc phải làm vì dân chúng và vì giáo triều. Nhưng chúng ta cũng phải làm điều đó vì gia đình mình. Bởi nếu chúng ta không tạo ra được một chính quyền thống nhất, do nhà Borgia kiểm soát nhằm cưỡng chế các chính quyền địa phương công nhận uy quyền của Rome và của Giáo hoàng, thì con và mọi thành viên khác trong gia đình chúng ta đều sẽ lâm nguy.” Ông dừng lời, trầm ngâm.

“Chúng ta cần có những pháo đài với quân tướng tinh nhuệ,” Cesare quả quyết. “Để trấn áp những cuộc nổi loạn ở các địa phương cũng như để ngăn chặn bọn xâm lăng ngoại bang muốn biến những miền đất trung tâm của chúng ta thành của chúng.”

Alexander không nói gì, dường như chìm sâu vào suy tư.

Cesare cúi đầu. “Con luôn sẵn sàng phục vụ cha. Con là một hồng y của Giáo hội mà.”


Ngồi vào chiếc ghế da yêu thích, Giáo hoàng Alexander nghiêm nghị nói, “Ta không cần nói chắc con cũng dư hiểu nếu như ta mất và một Giáo hoàng thù địch như della Rovere được bầu lên thì sẽ nguy hiểm cho tất cả các con và mọi thành viên khác trong gia đình ta như thế nào. Ta không dám nghĩ đến những gì sẽ xảy ra cho em gái con. Địa ngục của Dante cũng chưa sánh nổi với địa ngục mà nó sẽ phải đối mặt…”

Cesare nói, “Thưa cha, sao cha lại kể con nghe chuyện này? Chúng ta chưa cần phải run sợ mà, bởi cha hãy còn chưa bắt đầu thực hiện những thiện nghiệp mà cha phải làm cho Giáo hội Thần thánh, và do vậy con tin chắc là cha sẽ còn sống thêm nhiều năm nữa.”

Alexander hạ thấp giọng. “Cho dầu gặp cảnh ngộ nguy biến gì, cũng chỉ có hai người trong triều đình này mà con có thể tin cậy hoàn toàn. Một là Don Michelotto…”

“Điều đó không làm con ngạc nhiên, thưa cha, bởi ai cũng thấy cha ưu ái anh ấy thế nào. Con cũng dễ dàng tin tưởng anh ấy kể từ thuở bé.” Rồi chàng tạm dừng. “Tuy nhiên cuộc đời anh ấy vẫn còn là điều bí ẩn với con. Con chưa bao giờ hỏi cha chuyện này: Làm thế nào mà một người gốc Valencia lại một lòng cống hiến vì Rome?”

Và thế là Alexander kể lại cho con nghe câu chuyện về Miguel Corello, giờ đây được biết đến dưới tên gọi Don Michelotto.

“Nhưng anh ấy còn có ngoại hiệu là người thắt cổ,” Cesare nói.

“Đúng, con trai ạ, hắn được gọi là người thắt cổ, nhưng hắn còn hơn thế nhiều. Hắn là một tay cầm quân thiện nghệ, một chiến binh uy mãnh - và, điều quan trọng nhất, hắn sẵn sàng chết để bảo vệ gia đình chúng ta. Lòng trung thành nơi hắn cũng mãnh liệt như cơn cuồng nộ. Vậy nên đừng nhầm lẫn, hắn không chỉ là một sát thủ. Hắn đáng được tin cậy hoàn toàn.”

“Còn người kia?” Cesare hỏi.

“Người thứ nhì là Duarte Brandao. Về quá khứ của ông ấy, cha cũng chỉ có thể kể cho con nghe chút ít thôi, ông ấy bị bắt làm tù binh và được mang đến cho ta nhiều năm trước đây, khi ta cần một tay thông dịch tiếng Anh vì người thông dịch lâu nay của ta lại không có mặt. Nhưng ông ấy đã bị đám lính của ta đánh đập te tua và thề không còn nhớ gì về quá khứ của mình nữa.”

“Và tuy thế cha vẫn giữ ông ấy?” Cesare hỏi.

Alexander ngồi, hồi tưởng lại. “Lần đầu gặp mặt, ông ấy trông bẩn thỉu hôi hám và xộc xệch rối bù, bị giam lâu ngày trong ngục tối mà, nhưng một khi được tắm rửa và cho thay quần áo sạch sẽ, ông ta đến trình diện ta. Vào ngày đó, phong thái của ông ấy làm ta liên tưởng đến một nhân vật tên Edward Brampton, một người Do Thái cải đạo, từng phụng sự rất đắc lực cho vua Edward IV của Anh quốc. Ta từng thấy mặt ông ta chỉ một lần thôi, đã lâu lắm rồi, nhưng ta đặc biệt lưu ý bởi đó là người Do Thái đầu tiên được phong hiệp sĩ. Người ta nói rằng ông ấy từng phụng sự cho Richard III, hoàng huynh của Edward IV. Richard III, như con cũng biết, đã bị quân của Henry Tudor phục kích giết chết. Brampton đã đánh trăm trận trên đất liền và trên biển cả, vì Edward IV và thực sự đã cứu được toàn bộ hạm đội Anh quốc cho Richard III. Thế rồi Brampton biệt tích khỏi nước Anh và cùng khoảng thời gian đó, Duarte Brandao bị bắt ở Rome. Quân của Tudor sẽ phanh thây Brampton nếu chúng bắt được ông ta, và ngay cả hiện nay ông ấy vẫn luôn đối mặt với nguy cơ từ những mật vụ của hoàng gia Tudor.”

“Và đấy là lí do khiến ông ta phải thay tên đổi họ, phải không cha?” Cesare hỏi. “Nhưng Brandao có đúng là người Do Thái?”

Alexander nói, “Nếu thế, ông ta là một người cải đạo sang Công giáo, vì ta từng thấy ông ấy lãnh nhận Thánh Thể. Và vì bảy năm qua ông ấy đã phụng sự ta và Giáo hội Đức Mẹ Thần thánh một cách tín mộ hơn bất kì người nào khác mà ta biết. Ông ấy là người dũng cảm nhất và thông minh nhất mà ta từng gặp, vừa là một chiến binh tinh nhuệ trên đất liền và vừa là một thủy thủ lão luyện trên biển cả, một điều khá hiếm.”

“Con không phản đối chuyện ông ấy là người Do Thái, thưa cha,” Cesare nói, vẻ thích thú. “Con chỉ thắc mắc không biết người khác sẽ nghĩ sao khi họ thấy cha, vị nguyên thủ của Giáo hội Công giáo La Mã lại đang được tư vấn bởi một người không phải là Cơ-đốc.”

Alexander mỉm cười. “Ta vui vì con không phản đối, con trai ạ,” ông nói hơi có chút châm biếm. Sau đó giọng ông chuyển sang nghiêm túc. “Con biết quan điểm của ta về tình cảnh dân Do Thái, Cesare à. Khi Ferdinand và Isabella của Tây Ban Nha yêu cầu ta bỏ tù, tra tấn và giết hại những người Do Thái nào dám hành đạo của họ, ta đã từ chối. Ta bảo với họ ta cho rằng Tòa án Dị giáo của Tây Ban Nha là một chuyện ghê tởm cũng như chuyện đối xử với người Do Thái nơi xứ sở của họ. Xét cho cùng chính những con người này đã đem lại cho chúng ta giáo luật; họ đã cho chúng ta Đấng Jesus Christ. Ta có nên tàn sát họ bởi vì họ không tin Người là con của Chúa Trời? Không, ta sẽ không làm điều đó. Ta không thể luôn luôn ngăn ngừa thần dân của ta hay ngay cả những viên chức của ta tấn công hay lợi dụng người Do Thái, nhưng chắc chắn đó không phải là chính sách của ta.”

Cesare biết rằng khi các Giáo hoàng được bầu, một phần trong nghi lễ đăng quang là Giáo hoàng mới được người đứng đầu cộng đồng Do Thái ở Rome dâng một quyển sách giáo luật Hebrew. Mọi Giáo hoàng khác đều cầm lấy quyển sách và ném xuống đất tỏ ý ghê tởm. Chỉ cha chàng là không. Alexander VI cũng từ chối nó - nhưng ông trả nó lại với vẻ tôn trọng.

Giờ đây Cesare hỏi, “Thưa cha, vậy đối sách của cha là gì?”

“Ta không làm hại họ,” Giáo hoàng nói. “Tuy nhiên, ta sẽ đánh thuế họ thật nặng.”

Lưu & chia sẻ:

Chương 9
trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 ) Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 )

Post by trangd Fri Oct 21, 2022 10:51 pm

Giáo hoàng Alexander đã bị Virginio Orsini, vị nam tước thuộc giáo triều mà ông rất tin cẩn, phản bội vào thời điểm ông cần ông ta nhất và ông khó nuốt trôi sự phản bội này. Quỷ dữ đã cám dỗ linh hồn nọ, ông lí luận, và do đó quỷ dữ phải bị hủy diệt. Việc Virginio bị bắt, tra tấn rồi bị giết tại một trong những nhà ngục nổi tiếng của Naples vẫn không giúp Alexander rửa hận.

Đối với Giáo hoàng cuộc chiến này đã trở thành trận đánh thực sự giữa Người Đại diện của Đức Jesus Christ trên mặt đất và chính quỷ Satan. Với tư cách nguyên thủ của tất cả các lãnh thổ thuộc giáo triều ông biết mình phải ra tay hành động, quyết liệt trừng trị bọn nam tước địa phương ưa đánh nhau liên miên - và còn tệ hại hơn nữa, chúng dám khinh thường, cưỡng lệnh Giáo hội Công giáo La Mã. Vì nếu lời của Đức Thánh Cha mà không được tôn vinh và phục tùng, nếu tội lỗi được phép lan tràn như nấm sau mưa mà những người đức hạnh khoanh tay đứng nhìn, thế thì uy quyền của Giáo hội cũng sẽ suy yếu. Đến lúc ấy, ai sẽ cứu rỗi linh hồn của những người thiện tâm để đem họ về với Chúa?

Alexander hiểu rằng uy quyền tâm linh phải được sức mạnh thế tục hỗ trợ. Mặc dầu quân Pháp đã rút đi chỉ còn lại mấy đạo quân ít ỏi và chúng cũng đã bị quân của Liên minh thần thánh đánh cho tan tác cả rồi, Alexander vẫn nghĩ rằng mình phải nghĩ ra một hình phạt đích đáng để đảm bảo rằng một sự phản bội như thế sẽ không còn tái diễn.

Sau nhiều hồi cân nhắc thiệt hơn, ông lập luận rằng mình cần phải đem bọn Orsini ra làm tấm gương cho những tên nam tước dưới quyền nhìn thấy đó mà dẹp bỏ ý nghĩ phản loạn. Để làm được chuyện đó ông phải sử dụng đến vũ khí tối thượng với uy lực sát thương trí mạng nhất: rút phép thông công! Than ôi, ông không còn lựa chọn nào khác. Ông phải trục xuất cả gia tộc Orsini ra khỏi Hội Thánh.

Rút phép thông công là lời tuyên bố xử phạt quyết liệt nhất và là công cụ uy mãnh nhất thể hiện quyền lực của Giáo hoàng. Bởi đó là một hình phạt không chỉ đối với kiếp này mà còn đến tận kiếp sau. Khi bị khai trừ khỏi Giáo hội, kẻ đó không còn được hưởng ơn phước của bí tích thánh thể. Linh hồn hắn sẽ không được thanh tẩy khỏi tội lỗi qua việc xưng tội; những vết hoen ố sẽ mãi mãi còn lưu dấu mà không được thứ tha, mọi cơ hội xá miễn bị từ chối. Không còn được làm phép hôn phối, con sinh ra không được làm lễ rửa tội, không được chúc phúc và không được rảy nước thánh để bảo vệ khỏi quỷ dữ. Buồn thay! Không còn những nghi lễ để đem lại bình an trong giờ lâm chung, xác thân không được chôn nơi đất thánh. Đây là hình phạt kinh khủng nhất; nói trắng ra, đó là lời phán xét đưa linh hồn kẻ đó vào thẳng Luyện ngục hay thậm chí rơi vào Địa ngục!

Sau khi trục xuất nhà Orsini khỏi nước Thiên đàng, giờ đây Alexander tập trung vào việc hủy diệt quyền lực thế tục của họ. Ông gọi con trai thứ, Juan, từ Tây Ban Nha trở về để đảm nhiệm quyền thống soái quân đội giáo triều - bất chấp sự phản đối của vợ Juan, Maria Enriquez, mới có con. Nàng viện lẽ đứa con thừa tự của Juan, Juan II, mới tròn một tuổi, và cần có cha. Nhưng Giáo hoàng Alexander nhấn mạnh rằng Juan phải rời Tây Ban Nha ngay tức thời để về chỉ huy các đạo quân giáo triều - bởi vì sau sự phản bội của Virginio, Giáo hoàng không còn tin tưởng bất kì condottiere nào nữa. Con trai ông phải lập tức quay về để chiếm giữ các thành phố và các lâu đài của nhà Orsini. Trong khi đó Giáo hoàng cũng gửi một thông điệp cho con rể Giovanni Sforza, ở Pesaro, ra lệnh mang đến càng nhiều quân sĩ càng tốt, và đề nghị sẽ trả lương trọn cả năm cho toàn thể số quân đó, nếu chàng ta khẩn trương thi hành.

* * *

Từ khi chú em Juan được gửi đến Tây Ban Nha, hồng y Cesare Borgia đã hi vọng cha sẽ xem xét việc thay đổi vai trò cho mình. Xét cho cùng, Cesare chính là đứa con trước giờ vẫn luôn sát cánh với cha, cùng bàn quốc sự. Chàng hiểu rõ đất Ý. Juan thuộc về Tây Ban Nha. Và cho dầu cha chàng vẫn thường xuyên nhấn mạnh vị thế của chàng trong Giáo hội Đức Mẹ Thần thánh, Cesare vẫn hằng hi vọng cha sẽ xem xét lại.

Giờ đây ngồi trong dãy phòng riêng của Giáo hoàng, Alexander thổ lộ với Cesare về những kế hoạch của ông đối với Juan - rằng Juan phải chiếm giữ các lâu đài của nhà Orsini.

Cesare nổi sùng. “Juan? Juan?” Chàng nói, không tin ở tai mình. “Nhưng thưa cha, Juan có biết tí gì về chuyện điều quân đâu. Nó có biết gì về chiến thuật đâu. Nó chỉ biết nghĩ cho bản thân nó thôi. Nó chỉ giỏi dụ dỗ đàn bà con gái, giỏi phung phí tài sản của gia đình và giỏi huênh hoang khoác lác phù phiếm mà thôi! Với tư cách là anh nó, con phải ủng hộ nó, nhưng thưa cha, con có thể bịt mắt dẫn quân ra trận mà vẫn bảo đảm cơ hội chiến thắng lớn hơn là giao cho Juan cầm quân.”


Giáo hoàng Alexander nhíu đôi mắt lại và nhìn vào cậu con cả. “Ta đồng ý, Cesare à. Đúng là con thông minh hơn và có tầm nhìn chiến lược cao xa hơn em con rất nhiều. Nhưng con là một hồng y, một ông hoàng của Giáo hội, chứ không phải là một người lính trên chiến trường. Và ta còn lại ai? Đứa em Jofre của con? Bất hạnh thay, nó sẽ cưỡi ngựa đi thụt lùi cho xem. Ta còn không thể tưởng tượng nó cầm nổi món vũ khí nào. Vậy thì, ta còn chọn lựa nào nữa đây? Một người nhà Borgia phải chỉ huy đội quân này, nếu không đòn trừng phạt vì tội phản bội của Orsini đâu còn tác dụng giương oai với đám nam tước của giáo triều.”

Cesare ngồi lặng yên và suy tư trong một lúc rồi trả lời. “Cha thực sự trông chờ Juan mang về chiến thắng cho chúng ta hay sao? Sau những hành xử lố lăng của nó ở Tây Ban Nha, bất chấp những lời cảnh báo của chúng ta về việc không nên bài bạc, không đi lại với gái điếm, và phải tỏ ra kính trọng đúng mức đối với vợ hắn và nhà Enriquez, vốn là hoàng thân quốc thích hàng thứ nhất của vua Ferdinand? Vậy mà cha vẫn cứ chọn nó?”

Giọng baritone sâu lắng của Alexander dịu dàng và trấn an. “Chỉ huy thật sự sẽ là Guido Feltra. Anh ta là một condottiere dạn dày trận mạc, nổi tiếng về tài năng và bản lĩnh quân sự.”

Cesare từng nghe nhiều chuyện về Feltra. Rằng anh ta là người tốt, một kẻ trung thành, chẳng có gì phải bàn cãi; anh ta là một mạnh thường quân nổi tiếng chuyên bảo trợ cho văn học nghệ thuật, và là một vị công tước được dân chúng yêu mến ở Urbino. Nhưng thực ra, anh ta được hưởng tiếng thơm vì là con trai của một võ tướng nhà nghề, người được ban thưởng cả công quốc vì những chiến công hiển hách. Riêng bản thân chàng Guido trẻ này mới chỉ đụng độ vài ba trận nhỏ và thắng quá dễ dàng đám giặc cỏ làng nhàng thì làm sao đối đầu với kinh nghiệm trận mạc của quân tướng Orsini vốn khét tiếng thiện chiến? Nhất là khi họ cố thủ ở pháo đài chính Bracciano, Dĩ nhiên, nếu quân giáo triều cố chiếm lấy Ostia, quê hương của hồng y della Rovere thì cha chàng và thành Rome sẽ thật sự lâm nguy. Nhưng Cesare không nói lời nào về chuyện này cho Giáo hoàng, bởi chàng biết rằng hễ chuyện gì liên quan đến Juan thì cha chàng từ chối mọi lí lẽ. Khuya đêm đó, vẫn còn tức tối, chàng gửi một thông điệp cho em gái, yêu cầu nàng gặp chàng vào tuần sau ở Ngân Hồ. Don Michelotto hứa với chàng là sẽ tháp tùng Lucrezia từ Pesaro đến điểm hẹn.

Khi Lucrezia đến căn lều, Cesare đang đợi nàng. Nàng mặc một áo dài bằng xa-tanh màu thiên thanh làm tôn lên những bím tóc vàng và nổi bật màu xanh trong đôi mắt. Chuyến đi dài một ngày rưỡi làm đôi má nàng đỏ hồng lên vì nắng nóng và vì phấn khích. Nàng chạy ùa vào lều và quàng hai tay quanh cổ anh trai. “Em nhớ anh quá,” nàng nói. Nhưng khi nàng ngửa người ra sau để nhìn chàng, nàng thấy nỗi lo âu hiện lên trong đôi mắt chàng. “Có gì không ổn, Chez? Chuyện gì làm anh bận lòng?”

Cesare ngồi lên chiếc ghế da rộng và đập tay vào chiếc ghế đẩu trước mặt. Lucrezia ngồi xuống, nắm lấy tay chàng cố gắng an ủi.

“Crezia, thật là chuyện điên rồ. Cha đã ra lệnh Juan trở về để cầm đầu quân đội với tư cách thống soái quân đội giáo triều, lòng anh đầy đố kị đến độ tưởng có thể giết nó được…”

Lucrezia đứng lên, đi vòng ra phía sau Cesare, bắt đầu xoa trán chàng để cơn giận nguôi ngoai. “Chez,” nàng nói, “anh phải chấp nhận số phận mình thôi. Không chỉ Juan gây ra phiền não cho anh đến thế. Mà chính anh cũng đáng trách. Cứ làm như cả hai đều còn bé dại, tranh nhau phần bánh Giáng sinh của mẹ Vanozza. Em rất hiểu anh cảm nhận thế nào, nhưng nó chỉ làm anh tổn thương thôi, vì cha sẽ làm những điều như từ trước đến nay vẫn vậy, chỉ theo ý ông thôi.”

“Nhưng anh là người lính thiện chiến hơn Juan, thích hợp hơn nó nhiều để nắm quyền điều binh khiển tướng, và anh sẽ bảo đảm chiến thắng cho Giáo hội và cho Rome. Tại sao cha lại muốn một viên chỉ huy ưa khoe khoang, ngạo mạn - một tên hề chỉ làm ra vẻ như đang cầm quân?”

Lúc đó Lucrezia đang quỳ gối trước mặt Cesare và ngước lên nhìn vào đôi mắt chàng. “Chez, tại sao Papa cũng phải có một đứa con gái làm ra vẻ như hạnh phúc khi kết hôn với tên công tước ngu ngốc xứ Pesaro?”

Cesare mỉm cười. “Lại đây nào,” chàng nói, kéo cô em lại gần hơn. “Bây giờ anh cần em. Vì em là điều có thật nhất trong đời anh. Anh làm ra vẻ như một người của Chúa, nhưng xin thề trên chiếc mũ hồng y và trên tình yêu cho cha, Crezia, anh e rằng mình đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Anh không phải là con người mà anh đang cố ra vẻ, anh hết chịu nổi rồi.”

Khi hôn cô em, chàng cố gắng dịu dàng nhưng vì đã chờ đợi quá lâu nên nỗi khát khao khiến chàng không kiềm chế nổi. Chàng hôn nàng vồ vập, tới tấp khiến nàng bắt đầu run rẩy và bật khóc.

Cesare dừng lại và ngước đầu lên nhìn nàng. Những giọt lệ long lanh trong đôi mắt nàng. “Tha lỗi cho anh,” chàng nói. “Anh thật thô lỗ quá.”

“Không phải vì anh hôn làm em đau đến phát khóc đâu. Đó là những giọt lệ thương nhớ và mừng tủi đấy thôi. Thời gian này ở Pesaro cứ làm em mộng tưởng đến vinh quang ở Rome, và anh là một phần của những giấc mơ ấy.”

Sau khi làm tình, họ còn nằm lại trên giường một lúc lâu. Cesare có vẻ thư giãn và Lucrezia lại có thể mỉm cười. Nàng ngả đầu vào vai chàng và hỏi, “Giống như Papa, anh có tin rằng Chúa muốn con cái của Người không nên sống vì tình?”

“Papa nghĩ vậy thật sao?” Cesare nói, vừa lấy tay nghịch tóc em gái. “Nhìn vào cách sống của cha, chẳng ai nghĩ thế cả.”

“Em đã thành hôn với một người mà chắc chắn em chẳng hề yêu,” nàng nói. “Và anh Juan cũng không kết hôn vì tình. Jofre yêu dễ dàng, vậy nên có lẽ nó là đứa may mắn, cho dầu chuyện đó có vẻ lạ lùng. Còn anh, chỉ có chiếc mũ hồng y mới cứu anh khỏi một số phận như em.”

“Một chiếc mũ nặng nề,” Cesare nói.

“Nhưng không thiếu gì lợi lộc,” Lucrezia nhắc nhở chàng.

Mặc xong quần áo, họ ngồi vào chiếc bàn gỗ nhỏ để dùng bữa. Cesare rót cho em gái loại vang thật ngon mà chàng mang theo và nâng cốc mời. “Chúc em hạnh phúc, em gái cưng của ta,” chàng tươi cười nói. Chàng luôn cảm thấy thật an toàn bên Lucrezia, thấy được yêu thương và chấp nhận. Chàng không thể tưởng tượng một cuộc sống thiếu nàng.

Chàng mang đến một ổ bánh mì dài vừa mới ra lò, vỏ màu vàng ươm, giòn tan - đúng thứ mà chàng biết em gái mình thích ăn - cùng mấy khoanh phô-mai tươi nguyên. Trong lúc bẻ bánh mì và cắt phô-mai cho nàng, Cesare nói, “Khi gặp lại Juan ở Rome, anh mong có thể kiềm chế bản thân. Anh phải hết sức kìm nén mới có thể đối xử với nó như em mình.”

Với một nụ cười ranh mãnh, Lucrezia nói, “Anh ấy có thể có những gì anh muốn, Chez à, nhưng anh ấy không có được những gì anh có…”

“Anh biết chứ, cưng à,” chàng nói, hôn lên mũi nàng. “Anh biết rõ chuyện đó, và đấy chính là sự cứu rỗi của anh.”

* * *

Juan Borgia đến thành Rome với nghi thức đại lễ. Chàng ta cưỡi ngựa qua các đường phố, chễm chệ trên lưng một chiến mã màu hạt dẻ phủ tấm vải choàng óng ánh kim tuyến, tay nắm dây cương ngựa được khảm châu ngọc. Chàng ta mặc bộ nhung phục nâu đắt tiền và khoác áo choàng không tay gắn những viên bích ngọc đắt giá. Đôi mắt đen của chàng ta ngời lên vẻ tự hào về quyền lực và đôi môi trề ra nụ cười xấc xược của một người hùng đã lên đỉnh vinh quang!

Khi chàng đến trước điện Vatican, Giáo hoàng ôm hôn chàng, nồng nhiệt chào đón. “Con trai yêu, con trai yêu của ta,” Alexander rối rít lặp lại trên đường vào Đại Sảnh Các Giáo Hoàng, nơi ông đã triệu tập cuộc họp để vạch ra chiến lược cho quân đội giáo triều.

Nhiều giờ trôi qua dành cho việc bàn luận quân cơ với sự tham dự của Guido Feltra, Alexander, Juan, Cesare và Duarte Brandao.

Các cuộc họp bàn tiếp tục trong ba ngày. Cesare để ý thấy trong các cuộc hội nghị này Duarte ít khi nói trực tiếp với Juan nếu như có đề nghị nào, ông ta trình với Giáo hoàng, và gọi Juan bằng tước vị “thống soái quân đội giáo triều,” thay vì gọi tên. Đấy là lần đầu tiên mà Cesare nghi ngờ sự bất mãn của Duarte Brandao, và điều đó được biểu lộ tế nhị đến độ chàng chắc rằng chỉ mình chàng nhận thấy.

Nhưng chiều hôm đó, sau phiên họp cuối, khi Alexander ngồi riêng với Duarte Brandao, ông hỏi, “Anh cho rằng để con thứ của tôi, Juan, cầm quân chinh phạt nhà Orsini là một sai lầm?”


Duarte trả lời với cả sự khôn ngoan và thái độ tôn kính. “Tôi cho rằng thật là đáng tiếc khi chỉ vì thứ tự trên dưới mà một ông hoàng bẩm sinh phải trở thành một chiến binh và một chiến binh đích thực lại phải trở thành hồng y.”

“Nhưng, này anh bạn,” Alexander hỏi, “anh không tin vào số mệnh sao? Vào những hoạch định của Cha Trên Trời? Vào tính bất khả ngộ của Giáo hoàng?”

Duarte nhanh trí ứng đối với chút hài hước ý nhị, “Ai biết được ý cao xa của Cha Trên Trời? Và chúng ta, đám người trần mắt thịt chẳng phạm phải sai lầm trong cách kiến giải hay sao? Ngay cả con người đức hạnh nhất, đáng tôn kính nhất?”

“Này Duarte,” Alexander nói, “Pedro Luis, xin Chúa ban ơn phước cho linh hồn cháu, là con đầu lòng của ta. Cesare là con thứ hai. Theo thông lệ thì đứa thứ nhì được kêu gọi đi phụng sự cho Giáo hội Thần thánh. Sự sắp đặt đó không có gì nhầm lẫn bởi nó kiểm soát quyền lực của các hoàng gia, nhưng vẫn đem lại cho họ ân huệ từ Đức Thánh Cha. Chẳng phải số mệnh của một người vừa là quà tặng vô giá vừa là gánh nặng cả đời? Bởi ai trong chúng ta dám làm theo ý mình khi cầu nguyện, ‘Xin cho ý Cha được thực hiện, lạy Chúa tôi, chứ không phải ý con?’”


Tiếng cười hào sảng của Duarte vang vang khắp đại sảnh. “Thưa Đức Thánh Cha, xin tha lỗi cho tôi. Và cả với lòng kinh sợ lẫn ngưỡng mộ, tôi xin được phép trình bày quan điểm của mình. Làm sao người ta có thể chắc rằng chỉ có chàng chiến binh trẻ Cesare là con thứ nhì của ngài? Cái đào hoa của ngài đã trở thành truyền thuyết và sinh lực của ngài thì ngang tầm với những anh hùng thần thoại. Vậy nên với tôi, thật khó tin rằng không còn những đứa khác bị mẹ chúng giấu đi, không để thiên hạ biết và cũng không cho ngài biết…”

Nghe đến đó, Alexander cũng khoái chí cười lớn. “Anh quả là một nhà tư vấn xuất sắc đồng thời cũng là nhà ngoại giao quá khéo!” Ông nói. “Và nếu như số mệnh của vị hồng y trẻ là trở thành một chiến binh, thì rồi cũng sẽ đến lúc luận chứng của anh có chỗ khả dụng cho chúng ta đấy. Nhưng hiện tại, Juan là thống soái quân đội giáo triều và phải cầm quân ra trận. Vì thế, ngay lúc này, chúng ta đành phải quỳ gối và cầu nguyện cho chiến thắng thôi!”

Chàng trai hai mươi mốt tuổi Cesare, đứng bên ngoài Đại Sảnh Các Giáo Hoàng, trong trang phục của một hồng y, nghe lỏm được cuộc đối thoại này và lần đầu tiên, chàng cảm nhận một tia hi vọng. Có chăng, trên tất cả mọi phản trắc lọc lừa, mọi điên đảo thị phi trong trần gian này, thực sự vẫn có một cõi trời và một Đức Cha lắng nghe tất cả, thấu hiểu tất cả? Chàng tản bộ trở về dãy phòng của mình, đầu óc đầy ắp tưởng tượng, lần đầu tiên chàng đánh bạo mơ tưởng ngày chàng được triệu đến lĩnh ấn tư lệnh quân đội thành Rome.

* * *

Thống soái quân đội giáo triều Juan Borgia và tay condottiere Guido Feltra cầm đầu đạo quân giáo triều từ Rome bắc tiến đến lâu đài thứ nhất trong số các lâu đài của nhà Orsini. Mặc dầu quân tướng nhà Orsini là những chiến binh dũng mãnh, ở đồn lũy đầu tiên này họ bị choáng váng trước số lượng áp đảo của quân giáo triều, và thế là hai lâu đài đầu tiên thất thủ mà không tốn một mũi tên, viên đạn.

Khi tin thắng trận đến tai Duarte, ông ta vào gặp Alexander. “Tôi ngờ đây là một mưu kế để đánh lừa những người chỉ huy mới của chúng ta rằng đây sẽ là một chiến thắng dễ dàng. Sau đó bọn Orsini mới phô ra thực lực của chúng.”

Alexander gật đầu. “Vậy là anh không mấy tin tưởng vào tài cầm quân của Feltra?”

“Tôi từng thấy quân Orsini xung trận…” Duarte nói.

Cesare đã được Alexander gọi đến bởi cha chàng biết tầm nhìn chiến lược của chàng. Và bây giờ Giáo hoàng hỏi chàng, “Con cứ việc nói thật. Trong tình huống này con cho là nguy cơ lớn nhất nằm ở đâu?”

Thận trọng kiềm chế cảm xúc, Cesare trả lời có dè dặt. “Con e rằng Feltra, về chuyện quân sự, cũng không tài ba hơn tổng chỉ huy nhà ta. Và con dự đoán rằng chiến thắng dễ dàng này sẽ đặt cả hai vào tâm trạng tự mãn, lơ là phòng bị - có thể là tiền để cho thảm họa ở Bracciano, nơi quân Orsini sẽ tập hợp tinh binh. Và tại đó della Rovere sẽ cố làm cho chúng nghĩ rằng đây là cuộc thánh chiến, khiến sĩ khí tăng cao.”

Giáo hoàng kinh ngạc với cách đánh giá tình thế thật sáng suốt của cậu con cả, nhưng ông vẫn chưa biết Cesare chính xác đến mức nào đâu. Bởi không quá vài ngày trước, cuộc kháng cự của quân Orsini trở nên cường ngạnh và della Rovere, địch thủ nguy hiểm nhất của Giáo hoàng, cầu viện tay chỉ huy pháo binh lừng danh Vito Vitelli xuất quân ứng cứu quân Orsini.

Vitelli chuyển quân thần tốc, đánh úp quân giáo triều ở Soriano. Ở đó cả Juan và Guido Feltra tỏ ra vô năng bất lực một cách tuyệt vọng và đạo quân giáo triều bị giáng cho một đòn choáng váng đến tan tác. Guido Feltra bị bắt làm tù binh và bị ném vào ngục tối nơi một trong những lâu đài của Orsini. Juan may mắn thoát được, chỉ bị một nhát chém vào mặt không nguy hiểm lắm.

Nghe được tin này, và an tâm vì cậu con cưng không bị thương tích trầm trọng, Alexander lại gọi Cesare và Duarte vào Đại Sảnh Các Giáo Hoàng.

“Cuộc chiến này chưa ngã ngũ đâu,” Duarte trấn an Giáo hoàng, “vì chúng ta còn có những nguồn lực khác nữa mà.”

Cesare tiếp lời, “Và nếu Đức Thánh Cha nhận định rằng chúng ta đang đứng trước nguy cơ nghiêm trọng, người vẫn có thể kêu gọi những đạo quân Tây Ban Nha dày dạn trận mạc của Gonsalvo de Cordoba ở Naples mà…”

Nhưng sau khi họp với sứ thần của Tây Ban Nha, Pháp và Venice - tất cả họ đều khẩn cầu hòa bình - Giáo hoàng Alexander, vẫn luôn là nhà ngoại giao, miễn cưỡng đồng ý trả lại những lâu đài đã thất thủ cho nhà Orsini. Tất nhiên họ phải trả một cái giá cho cuộc dàn xếp này. Sau nhiều cuộc cò kè, cuối cùng Giáo hoàng chấp nhận giá chuộc năm mươi ngàn ducat. Bởi xét cho cùng, số tiền bồi thường ở mức đó là cần thiết để làm đầy những két sắt của Giáo hội Công giáo La Mã.

Kết quả có vẻ là một thắng lợi cho Giáo hoàng. Nhưng khi Juan trở về, chàng ta lại than phiền một cách cay đắng rằng mình bị ngáng chân không được tiếp tục những cuộc chinh phục tương lai và bị tước đoạt mất những chiến lợi phẩm đáng giá vì hiệp ước cầu hòa của Alexander. Thế cho nên, chàng lập luận chính chàng mới là người xứng đáng được hưởng năm mươi ngàn ducat vì vụ việc mất mặt này. Cesare hốt hoảng khi biết Giáo hoàng chiều theo ý Juan. Nhưng theo nhận định của Cesare, vấn đề còn nghiêm trọng hơn thế nhiều. Nhằm cứu vãn danh tiếng của mình, Juan khăng khăng rằng chàng ta phải được ủy thác nhiệm vụ tái chiếm Ostia từ tay đám quân Pháp do vua Charles để lại.

Cesare tức tốc chạy vào phòng của cha để biện giải với ông. “Thưa cha, chỉ còn một ít quân Pháp trấn thủ nơi đó, con biết thế. Nhưng nếu không hoàn toàn chắc thắng, Juan vẫn sẽ thua như thường, và với sự thất bại đó, thảm họa sẽ ập đến cho giáo triều và cho nhà Borgia. Bởi della Rovere đang ở đó và giăng bẫy chờ đợi thằng ngốc đó.”


Alexander thở ra. “Cesare, chúng ta đã đề cập chuyện này nhiều lần rồi. Bộ con nghĩ cha con khờ đến độ không thấy được điều con thấy hay sao? Lần này, ta đảm bảo sẽ có chiến thắng. Ta sẽ triệu tướng quân Gonsalvo de Cordoba - bởi trên đời này không có nhà cầm quân nào tài giỏi hơn ông ta.”

Giọng của Cesare vẫn còn đầy bực bội. “Điều đó không cản được em con đâu. Nó sẽ can thiệp vào việc quân. Nó sẽ tranh quyền với Cordoba - cha biết tính nó mà. Thưa Đức Thánh Cha, con thiết tha xin người nghĩ lại.”

Nhưng Alexander vẫn nhất quyết. “Juan sẽ không làm gì đâu, ta đã dặn dò nó rất rõ rồi. Nó chỉ cần lên ngựa dẫn đầu lực lượng giáo triều, xuất quân khỏi thành Rome, và khi cuộc chiến đã xong, chúng ta thắng trận, nó sẽ cưỡi ngựa quay về trong khải hoàn, với lệnh kì của nhà Borgia phất phới rợp trời. Còn giữa hai cuộc trình diễn hoành tráng kia, nó sẽ không được ra lệnh hay nêu ý kiến gì cả.”

* * *

Juan vâng lời cha. Chàng ta chễm chệ oai phong ra khỏi thành trên lưng con chiến mã đen hừng hực khí thế, vẫy mũ chào đám đông dân chúng thành Rome dọc hai bên đường chàng đi qua và theo lệnh cha, chàng hoàn toàn không nhúng tay vào trận đánh ở Ostia.

Dưới tài điều binh khiển tướng lỗi lạc của Gonsalvo de Cordoba, không bị ai xía vào làm rối, quân Tây Ban Nha nhanh chóng đánh bật quân thủ thành Pháp và chiếm lấy Ostia. Juan cưỡi ngựa trở về Rome hát khúc khải hoàn, như khi chàng ra đi, lần này với tiếng hò reo chiến thắng từ những hàng dài dân chúng kinh thành chen đầy các đường phố, rải thảm hoa mừng người hùng chiến thắng.

Ba đêm sau tại cung điện Borgia, hồng y Ascanio Sforza mở một cuộc dạ vũ vô cùng hoành tráng, mời nhiều khách tai to mặt lớn, kể cả những người con của Alexander. Cũng có mặt ở thành Rome vào thời điểm đó là hai anh em nhà Medici, Piero và Gio, bạn của Cesare thời đại học. Nhà Medici đã bị đẩy đi khỏi gia cư của họ ở Florence bởi quân Pháp và bởi những bài giảng của Savonarola.

Cung điện bề thế của hồng y Sforza ngày xưa là chỗ ở của nhà Borgia khi Rodrigo hãy còn là hồng y, nhưng nơi đó đã được tặng lại cho Ascanio khi Rodrigo trở thành Giáo hoàng. Mọi người nhất trí rằng đấy là cung điện đẹp nhất trong cả thành Rome.

Đêm đó Cesare quay về nhà cũ của cha mình cùng đám bạn mà chàng đã bù khú ăn nhậu, bài bạc suốt đêm trước trong thành phố.

Các bức tường của tiền sảnh rộng lớn treo đầy những bức thảm thêu tinh tế, từng đường kim mũi chỉ như tái hiện sinh động những khoảnh khắc lịch sử trọng đại. Qua khỏi tiền sảnh này, khách lại bước chân vào nhiều căn phòng khác cũng treo đầy các bức thảm thêu hoa mĩ, nền nhà được phủ những tấm thảm Đông phương vô giá, hòa hợp với những nệm bọc ghế ngồi bằng nhung và xa-tanh, tôn lên vẻ đẹp của những chiếc tủ, bàn gỗ khắc chạm lộng lẫy.

Nhưng vào chiều tối hôm đó đại sảnh đã được trang hoàng lại thành một phòng khiêu vũ với một dàn nhạc chơi nơi gác lửng cho các cặp trai thanh gái lịch nhảy múa với nhau.

Cesare hôm đó cặp kè với một em gái bao hấp dẫn và nổi tiếng, vừa mới khiêu vũ xong thì Gonsalvo de Cordoba tiến gần lại chàng. De Cordoba vốn dũng mãnh và luôn luôn nghiêm trang đứng đắn, đêm hôm đó lại tỏ ra bối rối, bực bội một cách khác thường. Ông ta cúi đầu thi lễ và hỏi Cesare có thể nói chuyện riêng với chàng được không.

Cesare cáo lỗi với cô bạn nhảy và dẫn viên tướng Tây Ban Nha đến chỗ ban-công lộ thiên nơi chàng từng chơi đùa khi còn bé. Ban-công nhìn ra một góc vườn riêng nơi đó nhiều khách khứa đang đi lại lòng vòng, trò chuyện vui đùa trong lúc nhấm nháp mấy món khai vị và nhâm nhi những li vang đỏ được người hầu bưng mời trên những khay bạc sáng bóng.

Nhưng bầu không khí vui vẻ của đêm hội bỗng bị khựng lại vì biểu cảm bất thường của Cordoba mà khuôn mặt thường ngày vẫn luôn hòa nhã, dễ mến, lúc đó lại nhăn nhó méo mó vì giận dữ. “Này Cesare, cậu em của anh làm tôi sôi máu hơn anh và tất cả mọi người nghĩ đấy.”

Cesare đặt bàn tay lên vai viên tướng để tỏ lòng hữu hảo và trấn an. “Cậu em tôi đã làm chuyện gì vậy?” Chàng hỏi.


Giọng viên tướng khàn đi vì căng thẳng. “Anh có biết rằng em anh chẳng phải động tay trong cuộc chiến ở Ostia?”

Cesare cười toác miệng. “Tôi biết chứ, thưa tướng quân, và tôi vẫn nghĩ như thế. Bởi vì phe ta thắng mà.”

“Và anh có biết rằng Juan đang tranh công, cho rằng chiến thắng này hoàn toàn là nhờ hắn?”

Cesare lắng nghe với vẻ đồng cảm trong lúc viên tướng nổi đóa, “Juan rêu rao khắp nơi rằng chính hắn - chứ không phải chúng tôi - là người đánh cho quân Pháp chạy tóe khói.”

“Hắn là đứa khoác lác, thùng rỗng kêu to ấy mà,” Cesare nói, “và những lời huênh hoang của hắn quả là lố bịch. Không có ai ở thành Rome này tin hắn đâu. Nhưng để xem ta có thể làm gì để sửa chữa cái bất công quá quắt này.”

Gonsalvo, vẫn còn giận lắm, nên không dễ nguôi ngoai. “Nếu ở Tây Ban Nha, chắc chắn tôi đã thách hắn một trận quyết đấu chết bỏ rồi. Nhưng kẹt là ở đây…” và ông ta dừng lời để lấy hơi. “Anh có biết rằng cái tên ngu ngốc ngạo mạn đó đã thực sự sai người đúc mề-đay bằng đồng để đem phân phát nhằm vinh danh hắn?”

Cesare chau mày. “Mề-đay?” Chàng lặp lại, ngạc nhiên. Chàng chưa từng nghe chút gì về chuyện đó.

“Mề-đay sẽ khắc chân dung hắn. Bên dưới, là dòng chữ được chạm khắc tinh xảo, Juan Borgia - Người Chiến Thắng ở Ostia.”


Cesare rất muốn phá lên cười vì sự ngông cuồng phi lí của thằng em, nhưng cố kiềm chế để không đốt bùng thêm lửa giận nơi Gonsalvo. Chàng ôn tồn nói, “Không có người lính nào trong quân đội giáo triều, và chắc chắn cũng không một người lính Pháp nào, mà không biết sự thật. Rằng chính ông, Gonsalvo de Cordoba ạ, chính ông mới là Người Chiến Thắng ở Ostia.”

Nhưng viên tướng Tây Ban Nha không thể nguôi giận. Thay vì thế ông ta hầm hầm nhìn về phía Cesare. “Juan Borgia? Người Chiến Thắng ở Ostia? Rồi sẽ thấy! Ta sẽ giết hắn. Ta vẫn có thể mà…” Thế rồi ông ta quay gót, rời khỏi ban-công vào lại trong cung.

Cesare còn đứng đó một lúc lâu sau khi de Cordoba đi khỏi, nhìn đăm đăm vào bầu trời đêm và ngạc nhiên tự hỏi không hiểu vì duyên cớ gì mà chàng và cái thằng nhóc mà thiên hạ gọi là em trai của chàng đó, lại có thể từ một mẹ sinh ra. Đúng là một vố chơi khăm của số mệnh, chàng tin như thế. Nhưng chưa kịp quay gót trở lại phòng khiêu vũ, chàng bỗng chú ý nhìn xuống sân.

Bên dưới chàng, quanh đài phun nước trung tâm, Cesare thấy đứa em Jofre của mình bàn bạc gì đó với viên tướng Tây Ban Nha và một chàng trai trẻ hơn, cao mảnh khảnh nhưng trông rắn chắc, khỏe mạnh. Họ nói quá nhỏ nên chàng không thể nghe được. De Cordoba đang chăm chú lắng nghe, đặt cả tâm trí vào cuộc trò chuyện, trong khi anh chàng trẻ hơn hình như đang nhìn dáo dác quanh khoảng sân như thể đang tìm ai vậy. Nhưng chính Jofre, thường ngày vẫn có vẻ dễ thương và không hề quan tâm đến chuyện thiên hạ, mặc ai muốn làm gì thì làm, mới khiến cho Cesare sửng sốt nhất. Bởi trên mặt cậu ta đang biểu lộ vẻ hung tàn đáng sợ mà trước nay Cesare chưa hề thấy.

Cesare định lên tiếng gọi họ, thì chàng chợt cảm nhận một bàn tay trên cánh tay mình. Đứng ngay phía sau chàng, một ngón tay đặt trên môi, Don Michelotto kéo Cesare từ gờ của ban-công lùi vào một góc khuất. Ẩn mình trong bóng tối, họ theo dõi một lúc lâu cho đến khi viên tướng nọ mỉm cười và bắt tay chàng thiếu niên Jofre. Khi Jofre đưa tay tới để bắt tay anh chàng trẻ hơn, Michelotto nhìn thấy một chiếc nhẫn hoàng ngọc lớn pha màu lục, được cắt góc không đều, ánh lên lấp lánh qua những mảnh sắc cạnh bắt lấy ánh trăng. Anh ta chỉ vào đó, “Lưu ý nhé, Cesare. Vì anh chàng đó chính là Vanni, cháu họ của Orsini.” Sau đó, cũng nhanh như khi xuất hiện, Michelotto biến đi.

Trở lại bên trong cung, Cesare rảo bước qua các phòng cố gắng tìm Jofre, nhưng dường như cậu ta cũng biến đi đâu rồi. Chàng gật đầu với cô em Lucrezia đang nhảy nhót với thằng chồng ngốc nghếch của nàng, Giovanni; gần đó, hoàn toàn không biết gì về cái đống lộn xộn mình đang tạo ra, Juan vẫn nhảy nhót vi vút với cô em dâu Sancia. Cả hai đứa cười hả hê vì đang có một khoảng thời gian thật tuyệt vời. Nhưng điều làm Cesare quan tâm nhất là de Cordoba, khi ông ta rời vũ hội, bỗng dưng nét mặt thư thái hẳn ra.

Lưu & chia sẻ:

Chương 10

trangd

trangd


Back to top Go down

Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 ) Empty Re: Tuyệt phẩm văn học Mỹ: Cha con Giáo Hoàng ( từ Chương 7 tới 12 )

Post by Sponsored content



Sponsored content


Back to top Go down

View previous topic View next topic Back to top

- Similar topics

Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum